Hạng B1
8/5/07
91
76
18
Bỏ hết 34 và 71 nha các bác
http://www.mt.gov.vn/Default.aspx?tabid=2&catid=142&articleid=19220
<h2>Thông cáo báo chí về Về một số nội dung cơ bản của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP</h2><h3>21/11/2013 9:5 GMT+7</h3>
BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2013
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
Về một số nội dung cơ bản của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Giao thông Đường bộ và Đường sắt

Để hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, ngày 13/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 171/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Nghị định mới ban hành có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014 và thay thế các Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP, Nghị định số 44/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải đường sắt và Nghị định số 156/2007/NĐ-CP ngày 19/10/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 44/2006/NĐ-CP.
Nhìn chung, mức xử phạt đối với hầu hết các hành vi vi phạm quy định tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP không tăng mà được giữ nguyên như các Nghị định trước đây và có giảm nhẹ đối với một số hành vi như: điều khiển xe tham gia kinh doanh vận tải hành khách không gắn thiết bị giám sát hành trình của xe, chủ phương tiện không làm thủ tục đăng ký sang tên xe theo quy định; Quy định thời hạn tước quyền sử dụng Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là 04 tháng thay cho hình thức tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ không thời hạn.
Nghị định 171/2013/NĐ-CP cũng quy định thêm một số hành vi mới bị xử phạt như: điều khiển xe có liên quan trực tiếp đến vụ tai nạn giao thông mà không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, không tham gia cấp cứu người bị nạn; người ngồi phía sau vòng tay qua người ngồi trước để điều khiển xe (trừ trường hợp chở trẻ em ngồi phía trước)
Bên cạnh đó, một số hành vi vi phạm cũng được mô tả chi tiết, cụ thể hơn, giúp cho việc xác định hành vi vi phạm được chính xác hơn, điển hình là việc mô tả chi tiết từng hành vi vi phạm quy định trong hoạt động kinh doanh vận tải như “Không thực hiện việc cung cấp, cập nhật, lưu trữ, quản lý các thông tin từ thiết bị giám sát hành trình theo quy định”, “không đánh số thứ tự ghế ngồi trên xe ô tô chở hành khách”… thay vì quy định chung “Không bảo đảm các điều kiện về kinh doanh vận tải”… như các Nghị định trước đây; Hành vi vi phạm của người điều khiển xe ô tô: vượt bên phải xe khác trong trường hợp không được phép, trừ trường hợp tại đoạn đường có nhiều làn đường cho xe đi cùng chiều được phân biệt bằng vạch kẻ phân làn đường mà xe chạy trên làn đường bên phải chạy nhanh hơn xe đang chạy trên làn đường bên trái; Hành vi vi phạm của người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy ”không đội mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ”.
Một số quy định được người dân đặc biệt quan tâm và có nhiều ý kiến phản hồi là quy định về tạm giữ phương tiện, quy định về xử phạt hành vi không làm thủ tục đăng ký sang tên xe…cũng đã được sửa đổi để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tế.
Đối với quy định về việc tạm giữ phương tiện trước khi ra quyết định xử phạt, thời gian tạm giữ đã giảm xuống còn đến 7 ngày (trước đây là đến 10 ngày), số lượng các trường hợp tạm giữ cũng giảm nhiều so với trước đây, Nghị định mới ban hành chỉ quy định tạm giữ phương tiện đối với những vi phạm của người điều khiển có tính chất nguy hiểm, nếu để người vi phạm tiếp tục điều khiển phương tiện sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn cao như hành vi điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn, điều khiển xe lạng lách, đánh võng; chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ…hoặc những vi phạm về điều kiện an toàn của phương tiện như điều khiển xe không có Giấy đăng ký xe, điều khiển xe không gắn biển số (đối với loại xe có quy định phải gắn biển số), điều khiển xe ô tô không đủ hệ thống hãm hoặc có nhưng không đúng tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật, điều khiển xe mà không có Giấy phép lái xe …
Đối với quy định về xử phạt hành vi không làm thủ tục đăng ký sang tên xe, mức phạt giảm xuống còn 100.000đ đến 200.000đ với mô tô, xe máy (mức phạt trước đây là 800.000đ đến 1.200.000đ) và 1.000.000đ đến 2.000.000đ với ô tô (mức phạt trước đây là 6.000.000đ đến 10.000.000đ). Thời điểm áp dụng quy định xử phạt này theo lộ trình sau: đối với xe ô tô từ 01/01/2015 và đối với mô tô, xe máy từ 01/01/2017; đồng thời, giới hạn các trường hợp kiểm tra xử phạt theo hướng quy định việc xác minh để phát hiện hành vi vi phạm này chỉ được thực hiện thông qua công tác điều tra giải quyết vụ tai nạn giao thông gây hậu quả từ mức nghiêm trọng trở lên và qua công tác đăng ký xe chứ không kiểm tra phương tiện đang lưu thông trên đường để tránh gây phiền hà cho người tham gia giao thông.
Ngoài ra, Nghị định số 171/2013/NĐ-CP cũng tiếp tục giao Bộ Công an, Bộ Tài chính khẩn trương sửa đổi các quy định liên quan đến thủ tục chuyển tên chủ phương tiện theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, bao gồm cả thủ tục đăng ký sang tên xe tại cơ quan công an và thủ tục nộp lệ phí trước bạ tại cơ quan tài chính, quy định rõ đối tượng có trách nhiệm phải làm thủ tục đăng ký sang tên xe.
Như vậy, cùng với việc lệ phí trước bạ khi đăng ký từ lần thứ 2 trở đi đối với ô tô chở người dưới 10 chỗ ngồi được giảm xuống còn 2% theo quy định tại Nghị định số 45/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 của Chính phủ và thủ tục đăng ký cho những phương tiện đã qua nhiều chủ được đơn giản hoá theo quy định của Bộ Công an tại Thông tư số 12/2013/TT-BCA ngày 01/3/2013, quy định lùi thời điểm xử phạt đối với hành vi không làm thủ tục đăng ký sang tên xe tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP đã tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ phương tiện có đủ thời gian để thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trước khi nhà nước áp dụng các hình thức xử lý vi phạm để bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm túc.
Với việc ban hành Nghị định số 171/2013/NĐ-CP, các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính đã được quy định chi tiết, đúng tinh thần của Luật, là cơ sở quan trọng để triển khai thực hiện, đưa Luật Xử lý vi phạm hành chính từng bước đi vào cuộc sống trong lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ, đường sắt.