Pro
Super Moderators
11/8/08
1.170
1.978
113
Mit-jolie.JPG
Mitsubishi Jolie và Toyota Zace tạo nên cặp đôi song hành trong phân khúc xe MPV 7 chỗ tại Việt Nam từ đầu những năm 2000. Tuy nhiên, suốt thời gian bán ra từ năm 1998 – 2007, Mitsubishi Jolie luôn bị đánh giá thấp hơn đối thủ Toyota, dù có nhiều ưu điểm vượt trội.

Để gợi nhớ về những mẫu xe từng gắn bó với người dùng Việt trước đây, Otosaigon sẽ thực hiện series bài viết Những mẫu xe vang bóng một thời để điểm lại lịch sử thăng trầm, những ưu/nhược đểm, những nhận xét đánh giá về các mẫu xe đã từng xuất hiện trên thị trường Việt.

Lịch sử xe Mitsubishi Jolie tại Việt Nam

Mitsubishi Jolie ra mắt lần đầu tại Việt Nam vào năm 1998 với 2 phiên bản GLS và GLX. Kích thước bên ngoài của Mitsubishi Jolie khá cân đối với thông số DxRxC lần lượt là 4.320 x 1.650 x 1.800 (mm). Chiều dài cơ sở là 2.620 mm và khoảng sáng gầm là 170 mm. Cả hai phiên bản đều trang bị tiêu chuẩn mâm sắt 14 inch, đi kèm thông số lốp 185R14.

otosaigon.com-mitsubishi-jolie-7.jpg

Một chiếc Mitsubishi Jolie 2001 thời đầu

Trên 2 phiên bản này, Mitsubishi Jolie được trang bị động cơ xăng 2.0L mã hiệu 4G63, 4 xi lanh thẳng hàng 8 van SOHC, cho công suất tối đa 92 mã lực tại 5.500 vòng/phút và mô-men xoắn cực đại 157 Nm tại 4.700 vòng/phút. Đi kèm là hộp số sàn 5 cấp cũng hệ thống dẫn động cầu sau.

Tuy nhiên, động cơ trên những phiên bản này của Mitsubishi Jolie sử dụng chế hòa khí hay còn gọi là bình xăng con, để hòa trộn nhiên liệu và không khí trước khi vào buồng đốt. Chính công nghệ này khiến Mitsubishi Jolie có phần thua thiệt so với Toyota Zace ra mắt 1 năm sau và sử dụng hệ thống phun xăng điện tử, hiện đại và tối ưu hiệu suất hơn.

Đến năm 2000, Mitsubishi Jolie được hãng xe Nhật Bản nâng cấp thiết kế lưới tản nhiệt và bổ sung phiên bản MB. Tuy nhiên, động cơ và cơ cấu dẫn động vẫn chưa được nâng cấp. Trong năm 2002, Mitsubishi Jolie tiếp tục bổ sung phiên bản SS, được nâng cấp ốp hông, ốp vè bánh, la-zăng đúc, thêm bánh dự phòng treo thay vì đút gầm.

Kích thước của phiên bản SS cũng khác biệt đôi chút, đặc biệt là chiều dài và chiều rộng tổng thể cũng tăng lên 4.640 mm1.750 mm. Và cùng với phiên bản MB, Mitsubishi Jolie SS chính thức thay thế hoàn toàn 2 phiên bản GLS và GLX.

Đến cuối năm 2003, một số lô sản xuất của Mitsubishi Jolie được thay nâng cấp hệ thống phun xăng điện tử MPIhệ thống van điều khiển cam đôi DOHC, giúp động cơ tăng công suất tối đa lên 122 mã lực tại 5.500 vòng/phút và mô-men xoắn cực đại 169 Nm tại 3.000 vòng/phút.

otosaigon.com-mitsubishi-jolie-1.jpg

Mẫu Mitsubishi Jolie ra mắt năm 2004

Vào tháng 7/2004, Mitsubishi Jolie ra mắt phiên bản nâng cấp lần cuối, với một số thay đổi về thiết kế lưới tản nhiệt mạ chrome cũng như đèn pha dạng mắt xếch. Trong khi động cơ vẫn sử dụng cấu hình tương tự nhưng lô sản xuất cuối năm 2003, được trang bị phun xăng điện tử và 16 van DOHC.

Trong năm 2006, Mitsubishi Jolie có thêm 1 phiên bản SS Limited với các bổ sung trang bị như: Ghế da, đầu đĩa DVD, nội thất ốp vân gỗ, bậc lên xuống, tay nắm cửa và viền đèn sau mạ chrome, cùng với ốp bánh dự phòng cùng màu với thân xe.

Và đến năm 2007, Mitsubishi Jolie chính thức khai tử, dọn đường cho đàn em Mitsubishi Zinger ra mắt năm 2008. Mitsubishi Xpander ở thời điểm hiện tại cũng có thể xem là một trong những thế hệ đàn em của Mitsubishi Jolie, tương tự Zinger.

Vì sao Mitsubishi Jolie bị đánh giá thấp trước Toyota Zace?

Mitsubishi Jolie có lợi thế khi ra mắt trước Toyota Zace vào năm 1998. Tưởng chừng lợi thế ra mắt trước sẽ giúp Jolie chiếm lĩnh được phân khúc MPV 7 chỗ đang dần thành hình. Tuy nhiên tình thế lại khác hẳn với những nguyên nhân dưới đây.

1. Giá bán

Toyota Zace luôn có giá bán thấp hơn so với Mitsubishi Jolie cùng đời. Cụ thể vào năm 2004, 2 phiên bản MB và SS có giá lần lượt là 25.300 và 28.600 USD. Trong khi đó Toyota Zace DX và GL có giá lần lượt là 20.000 và 23.000 USD.

2. Công nghệ phun xăng​

Toyota Zace ra mắt vào năm 1999 và sử dụng hệ thống phun xăng điện tử ngay từ đầu. Chính điều này khiến Mitsubishi Jolie trở nên lạc hậu khi vẫn dùng chế hòa khí đến tận năm 2003. Hệ thống phun xăng điện tử giúp tỷ lệ hòa khí luôn tối ưu, động cơ hoạt động ổn định hơn, không gặp hiện tượng hòa khí quá “giàu” hay quá “nghèo”.

otosaigon.com-mitsubishi-jolie-6.jpg

3. Tiêu hao nhiên liệu​

Mitsubishi Jolie sử dụng động cơ xăng 2.0L cho công suất và mô-men xoắn mạnh hơn đáng kể so với Toyota Zace. Mitsubishi Jolie cũng sở hữu trọng lượng không tải lớn hơn giúp người lái có được một cảm giác vận hành đầm chắc, lái thích hơn hẳn Toyota Zace.

Tuy nhiên, điều này vô tình khiến mẫu xe này có mức tiêu hao nhiên liệu cao hơn đối thủ Toyota. Theo phản hồi từ người dùng, trung bình Mitsubishi Jolie tiêu thụ khoảng 10 – 14 lít/100km. Trong khi, Toyota Zace tiêu hao từ 9 – 11 lít/100km. Và đây là yếu tố được hầu hết người tiêu dùng Việt Nam ưu tiên qua mọi thời khi lựa chọn mua một chiếc xe.

IMG_1845.JPG

4. Phụ tùng thay thế​

Trong suốt thời gian có mặt trên thị trường ô tô, Mitsubishi Jolie được cho là khó tìm phụ tùng thay thế trên thị trường bên ngoài, trong khi phụ tùng chính hãng Mitsubishi lại khá đắt đỏ. Trong khi, Toyota Zace luôn có sẵn phụ tùng bên ngoài và giá thành cũng phải chăng hơn nhiều.

Vậy có nên mua xe Mitsubishi Jolie ở thời điểm hiện tại?

Hiện tại, Mitsubishi Jolie đã trở thành những chiếc “cỏ” với mức giá không tới 200 triệu đồng. Tất nhiên vẫn có những chiếc Mitsubishi Jolie còn khá “cọp” chỉ lăn bánh khoảng vài chục ngàn kilômét. Tuy nhiên mức giá dành cho những dòng xe này cũng không cao đột biến như Toyota Zace, mà chỉ loanh quanh 210 – 230 triệu đồng.

otosaigon.com-mitsubishi-jolie-2.jpg

Một chiếc Mitsubishi Jolie 2006 của một thành viên Otosaigon - Xem thêm tại đây

Phần lớn những chiếc Mitsubishi Jolie sau 14 – 23 năm đã xuống cấp khá nhiều. Hầu hết các bác còn đang sử dụng đều phải sửa chữa và thay thế khá nhiều đồ để có thể sử dụng. Ngoài ra, tình trạng phụ tùng của Mitsubishi Jolie hiện không còn khan hiếm, nhưng chất lượng phụ tùng tốt hay không cũng là một vấn đề với những ai đang sở hữu chiếc xe này.

IMG_1851.JPG


Nếu so với các dòng xe ngày nay, Mitsubishi Jolie đã lạc hậu khá nhiều khi xe gần như một chiếc thùng tôn di động. Hệ thống treo sau dạng nhíp lá cho cảm giác ngồi rất cứng, khó êm ái như các hệ thống treo ngày nay. Công nghệ an toàn cũng không có gì ngoài dây đai an toàn và hệ thống phanh đĩa trước, tang trống sau.

otosaigon.com-mitsubishi-jolie-9.jpg

Tuy nhiên với mức giá khá mềm, Mitsubishi Jolie ở thời điểm hiện tại vẫn là một chiếc xe MPV 7 chỗ đáng tiền, để che mưa nắng, đi lại hằng ngày cho công việc cũng như gia đình. Với một chiếc xe cũ như Jolie, chủ nhân chiếc xe này cũng không cần phải cân nhắc quá nhiều về việc tìm nơi đậu đỗ, và không tốn công trông coi để tránh sự dòm ngó của những tên trộm vặt.

Trên Diễn đàn Otosaigon, dù không phải là một hội nhóm chính thức nhưng các bác sử dụng xe Mitsubishi Jolie cũng có một chuyên mục thảo luận [Jolie – Chiếc xe thân thiện] khá sôi nổi về mẹo sử dụng xe, cách bảo dưỡng, sử dụng và chăm sóc xe… Chuyên mục này được mở ra từ tháng 12/2012 nhưng vẫn còn được các bác tiếp tục trao đổi đến tận thời điểm hiện tại.

Hiện tại còn bác nào sử dụng Mitsubishi Jolie hoặc có người thân vẫn đang sử dụng chiếc xe một thời có thể chia sẻ kinh nghiệm thêm ở bên dưới. Ngoài ra, các bác cũng có thể chia sẻ thêm về những dòng xe vang bóng một thời mà mình có cơ hội sở hữu và gắn bó!

>>> Xem thêm những mẫu xe khác trong series bài viết Những mẫu xe vang bóng một thời của Otosaigon
 
Last edited by a moderator:
Hạng B1
5/10/16
98
89
18
32
Năm 2012 e mua 1 con bánh gầm tập lái.. leo cầu phú mỹ số 4,5 phà phà, xe ngon máy khoẻ. Có tội hao xăng nên sau 6 tháng e gã theo ck mới
 
Hạng B1
5/10/16
98
89
18
32
Năm 2005 ba e mua chiếc này màu đen y hình, sau bán lại có cò lại hốt ngay mà ko cần trả giá.
Sau này mua fortuner ba e nói chạy đầm ko bằng zolie đc.
Tại phò gầm nó cao hơn nên nhà bác cảm giác nó ko đầm bằng jolie á