[/size]PHẦN 2 : VẬT LIỆU
Các hãng bán vật liệu ra sức khoác cho nó những cái tên rất mỹ miều đại loại như Sound Deadening – làm “điếc” hoàn toàn âm thanh” hay Super Sound-proofing – “siêu cách âm” với những lời quảng cáo đường mật thường làm cho khách hàng bị choáng ngợp.[/size][/size][/font]
Các hãng bán vật liệu ra sức khoác cho nó những cái tên rất mỹ miều đại loại như Sound Deadening – làm “điếc” hoàn toàn âm thanh” hay Super Sound-proofing – “siêu cách âm” với những lời quảng cáo đường mật thường làm cho khách hàng bị choáng ngợp.[/size][/size][/font]
Nhưng dù là loại vật liệu rẻ hay đắt, được sản xuất bởi ai thì chúng cũng thuộc những loại sau: vật liệu hấp âm (Sound Absorption Material), vật liệu cản âm (Sound Barrier Material) và vật liệu giảm chấn (Vibration Damping Material), ngoài ra còn có loại kết hợp 2 hoặc cả 3 loại trên.
Vật liệu hấp âm (Sound Absorption Material) :
Vật liệu hấp âm (Sound Absorption Material) :
Loại vật liệu này làm giảm năng lượng âm thanh của các sóng âm khi đi qua nó. Hấp âm được sử dụng để làm “mềm hoá” môi trường âm bằng việc giảm biên độ của sóng âm, nó thường được áp dụng ở những nơi bị bao kín như phòng thu studio hoặc trong nhà.
Hiệu quả của vật liệu hấp âm được tăng gấp bội khi áp dụng nó ở những nơi có kết cấu bề mặt phản xạ vì âm thanh sẽ phải xuyên qua nó nhiều lần. Chính điều này nên trong phòng thu Studio người ta dùng rất nhiều vật liệu này với hình thù “lạ mắt” khác nhau. Một vật liệu hấp âm tốt phải xốp và có cấu trúc dạng sợi. Các sợi ở trong vật liệu sẽ cọ sát với nhau khi sóng âm đi qua tạo ra nhiệt năng và làm phân tán năng lượng âm thanh. Thuộc tính hấp âm của nó được gọi là độ hấp âm (Absorption Coefficient) và phụ thuộc rất nhiều vào tần số.
Một nguyên tắc chính là độ dày của vật liệu hấp âm phải tối thiểu bằng 1/4 bước sóng âm đi qua nó vì vập độ hấp âm sẽ suy giảm ở tần số thấp và tăng ở tần số cao. Hay nói một cách khác các vật liệu hấp âm thường bị hạn chế ở tần số thấp. Như ta biết, tại tần số 125- 250 Hz (rất phổ biến phát ra ở gầm xe khi đi vào vạch giảm tốc hoặc đường xấu) độ hấp âm của xốp Polyurethane có độ dày 13mm chỉ ở cỡ 10-15%, tuy nhiên ở tần số 2000 Hz nó lên tới khoảng 90%.
Việc này không được cải thiện được là bao nhiêu khi ta tăng độ dày của vật liệu lên gấp đôi cỡ 25mm. Ở với tần số này, 1/4 bước sóng của âm thanh (tần số càng thấp bước sóng càng dài …) có độ dài lớn hơn độ dày của vật liệu nhiều. Tới đây, sẽ có nhiều người đặt câu hỏi có thể tăng độ dày lên hơn 25mm được không? và câu trả lời là không khả thi trong môi trường chật hẹp của nội thất xe.
Ngoài Polyurethane các loại sợi cốt-tông (được dùng phổ biến ở các xe liên doanh lắp tại Việt Nam có thể vì nó có còn có tính cách nhiệt rất tốt và khá … rẻ), sợi Polyester, nỉ cũng được sử dụng. Riêng sợi thuỷ tinh ít được sử dụng trong xe hơi vì độ an toàn của nó.
Ngoài Polyurethane các loại sợi cốt-tông (được dùng phổ biến ở các xe liên doanh lắp tại Việt Nam có thể vì nó có còn có tính cách nhiệt rất tốt và khá … rẻ), sợi Polyester, nỉ cũng được sử dụng. Riêng sợi thuỷ tinh ít được sử dụng trong xe hơi vì độ an toàn của nó.
Vật liệu cản âm (Sound Barrier):
[/font]
Tác dụng của cản âm tương tự như khi ta đóng cửa vậy. Vật liệu này sẽ làm giảm cường độ sóng âm ở một hướng cụ thể. Nó can thiệp vào sóng âm khi nó phát ra từ nguồn âm, một phần năng lượng âm thanh sẽ tiếp tục đi tiếp theo hướng đã định sẵn với cường độ nhỏ hơn rất nhiều so với sóng âm nguyên thuỷ.
Cường độ sóng âm bị suy giảm khi đi qua vật liệu cản âm là do loại vật liệu này làm cản trở sự chuyển động của các phần tử không khí. Vì vậy, nó tạo nên sự phản xạ của một phần rất lớn năng lượng âm thanh. Một phần năng lượng khác bị hấp thụ và chuyển sang dạng nhiệt năng nhờ đặc tính giảm chấn của vật liệu. Số năng lượng còn lại được chuyển thành năng lượng âm thanh ở mặt kia của vật liệu đối diện với sóng âm truyền tới. Vì vậy, bất kỳ vật liệu cản âm nào cũng không cản được hết âm thanh.
Ta cũng có thể đưa ra yếu điểm của loại vật liệu này là nó rất “kỵ” lỗ hổng trên thân. Các lỗ hổng này sẽ làm giảm đi hiệu quả của vật liệu bằng việc cho áp suất không khí lưu thông qua nó và làm giảm đặc tính âm học của nó. Đại lượng đo đặc tính âm học của vật liệu cản âm được gọi là hệ số suy giảm âm (Sound Transmission Loss).
Như ta biết, vật liệu cản âm có hệ số suy giảm âm rất tốt ở tần số thấp và tăng đáng kể ở tần số cao. Ở tần số 125-250Hz, chì với trọng lượng 2 lb/sq ft (cỡ 12 kg/m2 ) làm suy hao âm tới 22-24dB (giảm đi còn chửa tới 1/4 âm lượng). Ngoài ra, ta cũng nhận thấy rằng độ nặng của vật liệu liên quan nhiều tới hệ số này, nếu độ nặng tăng thì hệ số tăng và ngược lại. Một điểm cần lưu ý, khi ta tăng gấp đôi trọng lượng của vật liệu thì ta sẽ nhận được không phải là tốt hơn gấp 2 lần (10dB) mà chỉ có thể giảm thêm được có vài ba dB, có nghĩa là chỉ giảm được có một chút “ít”.
Last edited by a moderator:
PHẦN 3 :
Loại vật liệu này được sử dụng để giảm mức chấn động (vibration) của một môi trường rung động. Nó rất hữu hiệu trong việc triệt tiêu rung động tại tần số cộng hưởng. Tần số cộng hưởng là mức rung động/ âm thanh đạt cao nhất và các panel hưởng ứng, giống như khi tiếng chuông ngân nga - đó là tần số cộng hưởng của chuông. Việc áp dụng một cách hiệu quả vật liệu giảm chấn sẽ tạo nên một kết quả khả quan mà các bác có thể cảm nhận được thông qua việc đặt tay hoặc ngón chân vào panel mà vật liệu đang được sử dụng.
Hiệu quả về âm học bị hạn chế bởi thực tế là chỉ tần số cộng hưởng bị triệt tiêu, mặc dù việc gia tăng trọng lượng của các panel khi được phủ lên một lớp giảm chấn cũng có tác dụng tăng hệ số cản âm, bạn nên tham khảo lại phần vật liệu cản âm nếu không nhớ hệ số cản âm là gì. Hệ số suy hao âm thanh (Acoustic Loss Factor) hay còn được gọi là hệ số giảm chấn (Loss Factor) là thông số đặc trưng của loại vật liệu này, thể hiện khả năng làm suy hao ồn cơ học (Structure-borne Noise) của vật liệu.
Nó cho ta biết bao nhiêu phần trăm năng lượng rung động (Vibrational energy) được chuyển sang nhiệt năng thay vì chuyển hoá thành âm thanh- tiếng ồn. Hệ số này có mức 1 là mức lý tưởng có nghĩa là không có rung động. Thông thường một miếng thép có độ dày 0.8mm, độ dầy giống như vỏ, nóc và cửa các xe hạng phổ thông lắp ráp ở ta, có hệ số giảm chấn là 0.001. Với những loại vật liệu tốt hệ số này có thể đạt đến 0.22.
Vật liệu giảm chấn thông thường làm giảm biên độ rung động của panel mà nó được áp dụng bằng việc sinh ra nhiệt năng. Có hai loại vật liệu giảm chấn chính là vật liệu dẻo-đàn hồi (Visco-elastic damping material) và vật liệu giảm chấn ma sát (Friction damping material). Loại vật liệu dẻo-đàn hồi sẽ tạo ra nhiệt năng trong quá trình biến dạng của nó. Khi được tối ưu hoá về độ cứng cũng như hệ số suy hao âm thanh nội tạng, hiệu xuất giảm chấn của vật liệu sẽ được tối ưu khi đưa vào áp dụng.
Vì hiệu năng của vật liệu phụ thuộc vào độ cứng nên hệ số giảm chấn sẽ thay đổi tuỳ theo nhiệt độ. Điều này hết sức quan trọng để ta lựa chọn vật liệu.
Bên cạnh đó, ta cũng cần lưu ý là độ dày của vật này liệu phải tối thiểu bằng 1/2 độ dầy của lớp panel mà nó đang được áp dụng. Asphalt là một dạng của vật liệu này được sử dụng rất rộng rãi ở trong các xe lắp trong nước ta vì tính sẵn có của vật liệu và nó là loại kinh tế nhất trong dòng vật liệu này.
Ngoài ra, phải kể đến loại vật liệu gốc nhựa như Polyme Acrylic, cao su Butyl, vật liệu giảm chấn hỗn hợp dạng kim loại-nhựa-kim loại (Metal-Plastic-Metal)…. Đây là những loại rất tốt được sử dụng rộng rãi trên thế giới và các xe cao cấp lắp ráp ở ta, tuy nhiên giá nó khá cao. Ở nhiệt độ 86OF với tần số 200Hz vật liệu này có độ giảm chấn rất ấn tượng là 0.259 gấp hơn 10 lần so với vật liệu gốc at-phan.
Cao su Butyl (tên khoa học là Polyisobutylene) là vật liệu tổng hợp gốc từ hóa dầu chứ không phải là cao su nhân tạo. Nó có cấu trúc tương tự như polyetyhylene ngoại trừ nguyên tử carbon thứ 2 có các liên kết với hai nhóm methyl (CH3).
Vật liệu này có tính lý hóa cực hay như kín khí không cho khí đi qua, chống ozone hóa, rất dẻo, chịu nhiệt tốt …. nên được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng làm kín như lớp trong cùng của lốp không xăm, bóng, kẹo cao su …. và là vật liệu tốt nhất dùng cho ứng dụng giảm chấn. Với vật liệu ma sát khi được áp dụng tại một bề mặt có rung động, chuyển động giữa vật liệu và bề mặt đó sẽ tạo ra ma sát mà vì vậy làm giảm năng lượng rung động của bề mặt. Khi vật liệu càng nặng thì độ cọ sát càng lớn và vì vậy cũng làm tăng khả năng giảm chấn của vật liệu. Sợi thuỷ tinh, xốp Polyurethane, nỉ, sợi cốt-tông là những dạng vật liệu của loại này.
Ngoài ra, vật liệu tốt là điều cần thiết đầu tiên, tuy nhiên việc áp dụng nó trong xe hơi thì chẳng dễ tí nào. Một loại vật liệu giảm chấn dạng chất lỏng là một sự lựa chọn không tồi. Loại này rất phù hợp với các nhà sản xuất xe vì nó phun được nhiều nơi mà dùng tay khó thao tác. Vật liệu này có nhiều dạng khác nhau nhưng thường ở dạng acrylic chưa lưu hóa, sau khi phun vào bề mặt panel gặp không khí sẽ lưu hóa thành một màng dạng chất rắn bám rất chắc vào panel.
Sau khi phun xong, thao tác tốn khá nhiều thời gian do phải tháo hết các phần liên quan, che chắn kẻo nó bắn vào nội thất, kết quả không được như mong muốn.
Khi áp dụng với lớp dầy 3mm ở nhiệt độ 40[SUP]o[/SUP] C hệ số giảm chấn của nó là 0.15 – khá “ấn tượng” đấy. Tuy vậy, thực tế ta chỉ phun được 1-2mm vì phải đợi các lớp trước khô rất lâu. Ở độ dày như vậy, hệ số giảm chấn sẽ tụt xuống còn có 0.05-0.1
Loại vật liệu này được sử dụng để giảm mức chấn động (vibration) của một môi trường rung động. Nó rất hữu hiệu trong việc triệt tiêu rung động tại tần số cộng hưởng. Tần số cộng hưởng là mức rung động/ âm thanh đạt cao nhất và các panel hưởng ứng, giống như khi tiếng chuông ngân nga - đó là tần số cộng hưởng của chuông. Việc áp dụng một cách hiệu quả vật liệu giảm chấn sẽ tạo nên một kết quả khả quan mà các bác có thể cảm nhận được thông qua việc đặt tay hoặc ngón chân vào panel mà vật liệu đang được sử dụng.
Hiệu quả về âm học bị hạn chế bởi thực tế là chỉ tần số cộng hưởng bị triệt tiêu, mặc dù việc gia tăng trọng lượng của các panel khi được phủ lên một lớp giảm chấn cũng có tác dụng tăng hệ số cản âm, bạn nên tham khảo lại phần vật liệu cản âm nếu không nhớ hệ số cản âm là gì. Hệ số suy hao âm thanh (Acoustic Loss Factor) hay còn được gọi là hệ số giảm chấn (Loss Factor) là thông số đặc trưng của loại vật liệu này, thể hiện khả năng làm suy hao ồn cơ học (Structure-borne Noise) của vật liệu.
Nó cho ta biết bao nhiêu phần trăm năng lượng rung động (Vibrational energy) được chuyển sang nhiệt năng thay vì chuyển hoá thành âm thanh- tiếng ồn. Hệ số này có mức 1 là mức lý tưởng có nghĩa là không có rung động. Thông thường một miếng thép có độ dày 0.8mm, độ dầy giống như vỏ, nóc và cửa các xe hạng phổ thông lắp ráp ở ta, có hệ số giảm chấn là 0.001. Với những loại vật liệu tốt hệ số này có thể đạt đến 0.22.
Vật liệu giảm chấn thông thường làm giảm biên độ rung động của panel mà nó được áp dụng bằng việc sinh ra nhiệt năng. Có hai loại vật liệu giảm chấn chính là vật liệu dẻo-đàn hồi (Visco-elastic damping material) và vật liệu giảm chấn ma sát (Friction damping material). Loại vật liệu dẻo-đàn hồi sẽ tạo ra nhiệt năng trong quá trình biến dạng của nó. Khi được tối ưu hoá về độ cứng cũng như hệ số suy hao âm thanh nội tạng, hiệu xuất giảm chấn của vật liệu sẽ được tối ưu khi đưa vào áp dụng.
Vì hiệu năng của vật liệu phụ thuộc vào độ cứng nên hệ số giảm chấn sẽ thay đổi tuỳ theo nhiệt độ. Điều này hết sức quan trọng để ta lựa chọn vật liệu.
Bên cạnh đó, ta cũng cần lưu ý là độ dày của vật này liệu phải tối thiểu bằng 1/2 độ dầy của lớp panel mà nó đang được áp dụng. Asphalt là một dạng của vật liệu này được sử dụng rất rộng rãi ở trong các xe lắp trong nước ta vì tính sẵn có của vật liệu và nó là loại kinh tế nhất trong dòng vật liệu này.
Ngoài ra, phải kể đến loại vật liệu gốc nhựa như Polyme Acrylic, cao su Butyl, vật liệu giảm chấn hỗn hợp dạng kim loại-nhựa-kim loại (Metal-Plastic-Metal)…. Đây là những loại rất tốt được sử dụng rộng rãi trên thế giới và các xe cao cấp lắp ráp ở ta, tuy nhiên giá nó khá cao. Ở nhiệt độ 86OF với tần số 200Hz vật liệu này có độ giảm chấn rất ấn tượng là 0.259 gấp hơn 10 lần so với vật liệu gốc at-phan.
Cao su Butyl (tên khoa học là Polyisobutylene) là vật liệu tổng hợp gốc từ hóa dầu chứ không phải là cao su nhân tạo. Nó có cấu trúc tương tự như polyetyhylene ngoại trừ nguyên tử carbon thứ 2 có các liên kết với hai nhóm methyl (CH3).
Vật liệu này có tính lý hóa cực hay như kín khí không cho khí đi qua, chống ozone hóa, rất dẻo, chịu nhiệt tốt …. nên được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng làm kín như lớp trong cùng của lốp không xăm, bóng, kẹo cao su …. và là vật liệu tốt nhất dùng cho ứng dụng giảm chấn. Với vật liệu ma sát khi được áp dụng tại một bề mặt có rung động, chuyển động giữa vật liệu và bề mặt đó sẽ tạo ra ma sát mà vì vậy làm giảm năng lượng rung động của bề mặt. Khi vật liệu càng nặng thì độ cọ sát càng lớn và vì vậy cũng làm tăng khả năng giảm chấn của vật liệu. Sợi thuỷ tinh, xốp Polyurethane, nỉ, sợi cốt-tông là những dạng vật liệu của loại này.
Ngoài ra, vật liệu tốt là điều cần thiết đầu tiên, tuy nhiên việc áp dụng nó trong xe hơi thì chẳng dễ tí nào. Một loại vật liệu giảm chấn dạng chất lỏng là một sự lựa chọn không tồi. Loại này rất phù hợp với các nhà sản xuất xe vì nó phun được nhiều nơi mà dùng tay khó thao tác. Vật liệu này có nhiều dạng khác nhau nhưng thường ở dạng acrylic chưa lưu hóa, sau khi phun vào bề mặt panel gặp không khí sẽ lưu hóa thành một màng dạng chất rắn bám rất chắc vào panel.
Sau khi phun xong, thao tác tốn khá nhiều thời gian do phải tháo hết các phần liên quan, che chắn kẻo nó bắn vào nội thất, kết quả không được như mong muốn.
Khi áp dụng với lớp dầy 3mm ở nhiệt độ 40[SUP]o[/SUP] C hệ số giảm chấn của nó là 0.15 – khá “ấn tượng” đấy. Tuy vậy, thực tế ta chỉ phun được 1-2mm vì phải đợi các lớp trước khô rất lâu. Ở độ dày như vậy, hệ số giảm chấn sẽ tụt xuống còn có 0.05-0.1
Last edited by a moderator:
Hay lắm, cảm ơn Bác đã cung cấp kiến thức có ích. Thật sự về lĩnh vực chống ồn cho oto rất khó, và rất ít ai hiểu được căn cơ như Bác!
--------
Mong Bác cung cấp tiếp cho mọi người các phần việc cụ thể hơn trong chống ồn:
- Ứng với từng tiếng ồn cụ thể (ví dụ tiếng ồn mặt đường, tiếng ồn từ khoang động cơ...), thì cần chọn loại vật liệu nào? Thực hiện ở đâu? (gầm, hốc bánh xe, khoang động cơ???)
- hiện có chỗ nào cung cấp?
- Ước lượng giá cả?
Cảm ơn Bác!


--------
Mong Bác cung cấp tiếp cho mọi người các phần việc cụ thể hơn trong chống ồn:
- Ứng với từng tiếng ồn cụ thể (ví dụ tiếng ồn mặt đường, tiếng ồn từ khoang động cơ...), thì cần chọn loại vật liệu nào? Thực hiện ở đâu? (gầm, hốc bánh xe, khoang động cơ???)
- hiện có chỗ nào cung cấp?
- Ước lượng giá cả?
Cảm ơn Bác!
Last edited by a moderator:
Đúng là cô em Tiểu yến này cung cấp cho ae OS tài liệu khá hay về phương pháp chống ồn cho xe hơi.
Thiết nghĩ đây là cuốn sổ tay cho ae nào có xe và sắp sắp mua xe để có sự lựa chọn làm sao cho xe mình bớt ồn khi lưa thông trên đường, nhất là dòng xe liên doanh...
Thiết nghĩ đây là cuốn sổ tay cho ae nào có xe và sắp sắp mua xe để có sự lựa chọn làm sao cho xe mình bớt ồn khi lưa thông trên đường, nhất là dòng xe liên doanh...
