Status
Không mở trả lời sau này.
Hạng B2
8/1/10
483
73
28
Mấy bài đó là chiêu lùa gà của đám đầu cơ vàng. Em ngửi thấy cái mùi dọa dẫm này từ lâu và nhận thấy khi nào tụi nó nói vậy là lúc kích vô giá vàng để gà nháo nhào đi mua.

Người ta chỉ mua vàng khi người ta sợ. Bọn đầu cơ vàng biết rõ tâm lý đó cho nên khi nào nó muốn mình mua vô thì nó sẽ tung những tin kiểu này. Tụi nó làm rất khéo, rất có hệ thống cho nên không bao giờ có chuyện tụi nó nói huỵch tẹt ra rằng hãy mua vàng đi mà viết nhiều bài khác nhau, chủ đề khác nhau, đánh mạnh vô tâm lý để bác tự thuyết phục mình mua vàng.

Khi số người mua vô đủ nhiều, bữa tiệc đã no nê thì nó sẽ đánh sụt xuống.

Hệ thống của tụi nó có trên khắp thế giới, em đoán vậy.


 
Hạng B1
19/10/13
64
2
8
Bác nào KD BĐS thua lỗ thì la BĐS đang giải chết, bác nào lãi thì hô BĐS đang phục hồi.
Xã hội loài người thay đổi, nhưng tâm lý kg thay đổi !
 
Tập Lái
1/4/13
41
3
8
57
http://bshohai.blogspot.dk/2013/12/cuoi-nam-2013-lam-gi-e-bao-toan-von.html

Bảo toàn vốn là một vấn đề có tính vừa trí tuệ, vừa nghệ thuật sử dụng đồng tiền của bất kỳ ai trong tình hình khủng hoảng kinh tế của những năm qua. Đặc biệt, với nền kinh tế như ở Việt Nam đang tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng ở một quốc gia mà nền công nghiệp phụ trợ chưa phát triển. hầu hết vật liệu xây dựng cơ sở hạ tầng đều phải nhập. Tình hình nhập khẩu luôn lớn, trong khi xuất khẩu để phục vụ xây dựng và chỉ tiêu tăng trưởng. Nó đẩy lạm phát tăng cao, do tình trạng đồng tiền nội địa tràn ngập thị trường, và việc phá giá đồng tiền do thiếu nguồn dự trữ ngoại tệ. hậu quả là nghệ thuật xén lông cừu diễn ra ở tầng lớp trung lưu và nhân dân lao động làm ra của cải chính cho xã hội.

Sau hậu quả lạm phát, tăng trưởng thiếu quy hoạch là tình trạng thắt lưng buộc bụng, và siết chặt kinh tế, tín dụng để kiềm chế lạm phát, và hậu quả của nó, là tình trạng giảm phát sau khi nghị định 11/2011 của chính phủ đề ra. kết quả là, liên tục trong 2 năm, tình trạng xuất siêu của Việt nam cân bằng dương. Điều này là do nhiều lý do khách quan và chủ quan của tình hình kinh tế trong và ngoài nước đưa đến.

Với kinh tế trong nước do tình trạng đóng băng bất động sản, đưa đến nợ xấu tăng cao, hệ thống ngân hàng không còn lối thoát đầu tư và giảm nguồn cho vay có khả năng chi trả. Nên dẫn đến tăng trưởng tín dụng giảm, nguồn tiền mặt lưu thông trong xã hội kém. Nó đã làm sức mua giảm, tình hình giảm phát của nền kinh tế diễn ra, và hàng loạt doanh nghiệp ngưng hoạt động, hoặc phá sản. Kết quả là giảm lượng nhập khẩu, trong khi đó tình trạng xuất khẩu vẫn tăng đều.

Với kinh tế thế giới, tuy khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn còn ảnh hưởng, nhưng với những thị trường chủ chốt giúp cho nền kinh tế dựa chủ yếu vào xuất khẩu như Việt Nam vẫn tăng đều, đặc biệt, Hoa Kỳ và châu Âu. Bên cạnh đó, kích thước của nền kinh tế Việt chỉ là một miếng bánh nhỏ của nền kinh tế toàn cầu. Nên nó đã giúp tình hình xuất khẩu vẫn tốt hợn tình hình nhập khẩu.

Kết quả là 2 năm 2012 và 2013 tình hình xuất siêu cân bằng dương - lấy tổng xuất khẩu trừ đi tổng nhập khẩu là con số dương. Nhờ đó việc kiềm giá đồng đô la Mỹ không bị tăng giá theo tỷ lệ lạm phát, do nguồn cung đô là từ xuất khẩu dư thừa. từ đó, mấy ngày cuối năm 2013 tình trạng giá đồng đô la giảm, mặc dù giá vàng ngược lại thì tăng nhẹ.

Đây là một hiện tượng nghịch lý có tính logic của tình hình kinh tế toàn cầu, giá đồng đô la, giá vàng, giá dầu và kinh tế trong nước chỉ ngắn hạn, trong khi giá dầu cuối tuần này đã tăng vượt 100usd/thùng.

Nghịch lý có tính logic thứ nhất là, kinh tế Hoa Kỳ bất ngờ tăng trưởng cao với 4,1% so với 3,6% dự đoán ban đầu. khi kinh tế Hoa Kỳ tốt, chỉ tệ đô la sẽ tăng so với các đồng tiền khác trên toàn cầu. Nó sẽ kéo theo giá vàng giảm, giá dầu giảm, và giá các đồng tiền khác sẽ giảm so với đô la Mỹ. Đặc biệt, những đồng tiền yếu, với một nền kinh tế có dự trữ ngoại tệ yếu và phụ thuộc và nhập khẩu trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho phát triển kinh tế như Việt Nam.

Nghịch lý có tính logic thứ hai là, nhờ vào tình trạng giảm phát và giảm sức mua trong dân chúng do hậu quả của đóng băng bất động sản và nợ xấu mà, tình hình cân bằng cung cầu ngoại tệ của Việt nam không bị ảnh hưởng, dự trữ ngoại tệ tăng gấp đôi, theo ghi nhận vào tháng 10/2013 đã đạt 32 tỷ đô la, nên giá đồng đô la so với đồng Việt Nam không tạo áp lực phá giá đồng Việt Nam như những năm trước đây.

Một nghịch lý có tính logic thứ ba đang diễn ra cuối năm nay là, giá dầu tăng, giá vàng thế giới tăng trong khi Hoa Kỳ đã tự cung được dầu khi họ đã biến đá thành dầu bằng công nghệ mới, và kinh tế Hoa Kỳ phục hồi rõ rệt, chỉ tệ nđồng đô la mạnh lên. Nhưng đây chỉ là những nghịch lý có tính ngắn hạn do mùa Đông đến, nhu cầu năng lượng tăng, và việc mua sắm vàng mùa tết đến phục vụ cưới hỏi của các quốc gia đông dân ở chấu Á như Trung Hoa và Ấn Độ.

Ba nghịch lý có tính logic trên sẽ biến mất đối với nền kinh tế Việt nam trong nằm 2014, khi mà 3 tháng cuối năm tình hình đầu tư công của Việt Nam đang được đẩy mạnh để tạo ra sự phát triển giả tạo trong tăng trưởng. nhập khẩu sẽ lại vượt xuất khẩu. Trong khi nợ xấu ngày càng tăng, nhưng không có nguồn để giải quyết khi thất bại trong đàm phán TPP. Cân bằng âm dự trữ ngoại tệ sẽ quay về. Bên cạnh đó, đống nợ xấu, và nợ công sẽ ngốn đi mỗi tháng hàng tỷ đô la đã đến thời điểm trả nợ và lãi mà nó được vay từ những thập niên trước. Trong khi đó giá trị đồng đô la sẽ còn tiếp tục tăng. Và vòng xoắn lạm phát, phá giá đồng tiền Việt Nam sẽ quay trở lại, khi mà nền kinh tế chỉ phụ thuộc và gia công, bán tài nguyên, kiều hối và tận thu thuế để tồn tại.

Giá vàng và dầu sẽ tiếp tục giảm, trong khi đồng tiền Việt trong tương lai sẽ lại mất giá, nhưng nền kinh tế đang nhận lãnh hậu quả nợ xấu và giảm phát do sức mua của dân cạn kiệt. Trong khi lãi suất ngân hàng đang giảm thấp nhất trong 5 năm qua. Hiện tại đồng đô la đang giảm giá nhờ kiều hối cuối năm tuôn về. Nơi trú ngụ cuối cùng chỉ còn là những đồng ngoại tệ mạnh. Đồng ngoại tệ mạnh trong tương lai chỉ có lên, mà chưa bao giờ xuống, dù có những lúc nền kinh tế Việt tốt nhất ở cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, đó là đồng đô la Mỹ.

Cho nên với tất cả những nhận định trên, để bảo toàn vốn tốt nhất trong năm 2014 thì đồng đô la Hoa Kỳ là nơi tốt nhất cho dân Việt, nếu bạn không đủ sức là những con kền kền đi nhặt xác chết rẻ mạt để gầy dựng và phát triển.
 
Hạng B1
2/8/09
90
64
28
Đọc nhiều mà chẳng hiểu được bao nhiêu,
18.gif
tuy duy của em có lẽ tụt hậu quá rồi.
 
Tập Lái
1/4/13
41
3
8
57
Tiếp theo là Hiệu quả sử dụng vốn và năng suất lao động xã hội(TFP) thấp....
http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/sukien/112459/Chuyen-gia-Nhat-%22Viet-Nam-da-roi-vao-bay-thu-nhap-trung-binh%22.html
(TBKTSG Online) - Bẫy thu nhập trung bình đã thực sự bao trùm Việt Nam, chứ không còn là nguy cơ xa xôi như nhiều người cảnh báo, chuyên gia Nhật Bản về Việt Nam, giáo sư Kenichi Ohno đã khẳng định như vậy.

Giáo sư Ohno, người có hơn 20 năm gắn bó với Việt Nam và có nhiều nghiên cứu về các vấn đề kinh tế ở Việt Nam, nói: “Ngày nay, sau một vài năm đạt mức thu nhập trung bình thấp, bẫy thu nhập trung bình không còn là một nguy cơ xa xôi, mà đã trở thành thực tế ở Việt Nam”.
Nhận xét của giáo sư Ohno được đưa ra trước nhiều học giả Việt Nam tại hội thảo “Khởi tạo động lực tăng trưởng mới: Tăng cường liên kết doanh nghiệp FDI – nội địa” do trường Đại học kinh tế Quốc dân, và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức ngày 26-3 tại Hà Nội.
Giáo sư nhớ lại, các thảo luận về bẫy thu nhập trung bình đã được khởi động ở Việt Nam năm 2008, khi quốc gia đạt mức thu nhập trung bình đầu người 1.070 đô la Mỹ, nhằm cảnh báo cho các doanh nghiệp và quan chức “đang tự mãn” với mức tăng trưởng cao trong quá khứ.
Tuy nhiên, các cảnh báo đó đã không mang lại nhiều tác dụng. “Đã có nhiều bằng chứng cho thấy đất nước đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, ông nói.
Theo giáo sư Ohno, có 5 triệu chứng cho thấy Việt Nam đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.
Thứ nhất, tăng trưởng chậm lại. Ông phân tích, sau khi khắc phục khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2000-2005. Lúc đó, tinh thần của người tiêu dùng và nhà kinh doanh rất cao, và Chính phủ tỏ ra đã hài lòng.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng này được thúc đẩy chủ yếu bằng bong bóng tại các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán chứ không phải là tăng năng suất lao động.
Sau năm 2006, khi tăng trưởng đi xuống với nhiều biến động, tâm trạng toàn xã hội trở nên ảm đạm. Tăng trưởng giảm xuống còn 5-6%, và đất nước trải qua một giai đoạn với bất động sản trầm lắng, lạm phát, nợ xấu.
Ông nhận định ở một nền kinh tế tương đối trẻ với tiềm năng lớn cho phát triển thì tăng trưởng dưới 5-6% cần được xem như một cuộc khủng hoảng xã hội.
Theo giáo sư, năng suất sản xuất mờ nhạt là biểu hiện rõ ràng thứ hai chứng tỏ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Ông dẫn ra nhiều số liệu cho thấy, hệ số ICOR tăng (hệ số sử dụng vốn, ICOR cao nghĩa là đồng vốn bỏ ra lớn nhưng hiệu quả không cao) và sự đóng góp của TFP (chỉ tiêu đo lường năng suất của đồng thời cả “lao động” và “vốn” cho nền kinh tế) vào tăng trưởng giảm, trong khi nguồn vốn đầu tư tăng cao; và khẳng định: “Đây là dấu hiệu rõ ràng của tăng trưởng dựa trên đầu tư với hiệu quả sử dụng vốn thấp”.
Mặt khác, theo giáo sư, trong những năm gần đây, tăng lương tại Việt Nam đã lớn hơn nhiều so với mức tăng năng suất lao động, làm chi phí sản xuất trở nên đắt đỏ hơn.
Từ năm 2009-2012, năng suất lao động tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 3,2% cho toàn bộ nền kinh tế, và 5,1% cho khu vực sản xuất. Trong khi đó, tiền lương danh nghĩa tăng với tỷ lệ trung bình 25,9% năm cho toàn bộ nền kinh tế, và 23,5% cho sản xuất.
Từ những dữ kiện trên (của Quốc hội Việt Nam), giáo sư Ohno cho rằng khả năng cạnh tranh về chi phí bị mất đi với tỷ lệ hàng năm 22,7% cho toàn bộ nền kinh tế, và 18,3% cho sản xuất.
Sự mất giá của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ trong giai đoạn trên với tỷ lệ 5,5% mỗi năm là quá nhỏ để bù đắp cho tốc độ mất khả năng cạnh tranh của nền kinh tế mỗi năm là 22,7%.
Ngoài những dấu hiệu trên, theo giáo sư Ohno, thiếu hụt dịch chuyển cơ cấu, năng lực cạnh tranh trong bảng xếp hạng không có dấu hiệu tăng, và xuất hiện các vấn đề do tăng trưởng gây ra cũng là các bằng chứng hiển nhiên để khẳng định Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Bài phát biểu của giáo sư Ohno đã không nhận được sự phản biện nào từ các học giả Việt Nam tại hội thảo.
Phó hiệu trưởng Trường Đại học kinh tế Quốc dân Trần Thọ Đạt nhận xét, dư địa cho tăng trưởng theo chiều rộng của mô hình kinh tế Việt Nam không còn, do vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, Việt Nam cần tạo ra động lực mới cho tăng trưởng.
Nhưng đây là điều khó khăn. Ông Đạt băn khoăn: “Những động lực mới cho tăng trưởng là gì? Làm thế nào để tạo ra động lực này?”.
 
Last edited by a moderator:
Tập Lái
27/1/14
35
1
0
42
Đọc thớt của bác sặc mùi bi quan cho Việt Nam. Hóng máy bác cao thủ vào phản biện :D
 
Tập Lái
1/4/13
41
3
8
57
https://nr-032.appspot.com/www.gocnhinalan.com/bai-tieng-viet/ts-alan-phan-kinh-te-viet-nam-2030.html

thongphamdhk[/h4]07/04/2014 at 12:57 pm
Vừa qua, trên các trang báo ( giấy/mạng) có đăng tải nội dung :
Việt Nam đã “rơi vào bẫy thu nhập trung bình” theo nhận xét của giáo sư Nhật Ohno được đưa ra trước nhiều học giả Việt Nam tại hội thảo “Khởi tạo động lực tăng trưởng mới: Tăng cường liên kết doanh nghiệp FDI – nội địa” do trường Đại học kinh tế Quốc dân, và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức ngày 26-3 tại Hà Nội.
(.http://www.baomoi.com/Chuyen-gia-Nhat-Viet-Nam-da-roi-vao-bay-thu-nhap-trung-binh/45/13408032.epi )
Tuy nhiên, qua tiếp xúc với rất nhiều đối tác, các doanh nghiệp, kể cả môt số bạn bè trong giới NH, tôi nhận thấy không mấy ai quan tâm tới thông tin nầy.
Vậy,bẫy thu nhập trung bình là gì ? tác động của nó ra sao?…và ảnh hưởng gì tới mỗi doanh nghiệp, cá nhân, gia đình chúng ta?
Để tiện thảo luận nhằm hiểu thêm về nội dung trên, theo góc nhìn của mình, tôi cũng xin phép có một số thiển ý về đề tài trên.
Để thuận tiện trong việc lý giải, minh hoa, tôi có thể tạm lấy một ví dụ nhỏ :
Giả định ta có 2 doanh nghiệp Spo và Vila, cùng kinh doanh những ngành nghề tương tự, qui mô sx, kinh doanh tương tự nhau.
Trường hợp 1 : Để kinh doanh, doanh nghiệp Spo có vay một số tiền 500.000.000đ, lãi suất 1%/tháng. Cuối tháng, doanh nghiệp Spo dư ra 35.000.000đ, sau khi trã lãi 5.000.000đ, trã vốn vay 20.000.000đ, họ còn 10.000.000đ để tái đầu tư, phát triển sx. Sau gần 25 tháng, Spo đã hoàn vốn vay, và có đủ nguồn lực để tăng tốc phát triển.
Trường hợp 2 : Đối với doanh nghiệp Vila, với văn hóa kinh doanh “đặc thù” tự soạn , ngoài những khoản đầu tư thiết yếu cho sx, kd, họ còn phát sinh nhiều chi phí khác không thực sự hổ trợ cho kinh doanh, cùng với bộ máy nhân sự cồng kềnh không cần thiết, đính kèm với cơ sở vật chất phục vụ cho mình.,Tuy nhiên, do điều kiện vay mượn dể dàng, cuối cùng doanh nghiệp Vila cũng đã vay được tiền cho nhu cầu kinh doanh, nhưng với nhiều lần vay, mức vay của họ đã lên đến 2.000.000.000đ ( cũng với mức lãi suất 1%/tháng ) mới hoạt động được doanh nghiệp của mình.
Cuối tháng doanh nghiệp Vila dư ra 35.000.000đ, họ trã lãi vay 20.000.000đ, trả vốn vay 5.000.000đ, còn 10.000.000đ để duy trì sự sống cho bộ máy cồng kềnh của mình. Sau gần 400 tháng (khoảng 33 năm), doanh nghiệp Vila mới hoàn tất việc trả hết vốn vay.
Trong 2 trường hợp nêu trên, trường hợp thứ 2 của doanh nghiệp Vila co the được xem là trường hợp đã “rơi vào bẫy thu nhập trung bình “. Và nếu doanh nghiệp Vila vẫn chưa ý thức được tình trạng của mình, tiếp tục vay thêm tiền để hoang phí, thời gian hoàn vốn có thể nhân đôi so với số thời gian phía trên.
( Nếu tôi là nhà đầu tư tài chánh khôn ngoan, tôi sẽ đi “săn lùng” một tay doanh nghiệp ngơ ngáo nào ham thích tiêu xài, thừa tham vọng, thiếu kiến thức, nhưng có tài sản đãm bảo, tôi sẽ cho hắn vay tiền thật thoải mái, nhưng phải “cân đối” chỉ vừa đủ cho dòng họ của “hắn” cày bừa suốt ba đời để nuôi gia đình tôi ăn không ngồi rồi.
Nếu đã lọt “bẫy” rồi mà “hắn” còn không biết khôn, không chịu tiết kiêm, vẫn còn nhu cầu và sẳn sàng vay mượn tiếp tục để hoang phí, tôi cũng sẽ cho vay tiếp, nhưng chắc chắn là phải đính kèm với một số điều kiện liên quan tới “đất đai lãnh thổ” thuộc tài sản thế chấp của hắn – dĩ nhiên là phải giá hời.
Bảo đãm là khi đã “ sụp bẫy” rồi thì con “mồi” khó mà thoát khỏi một sớm một chiều. )
Thông tin “ Việt Nam dã rơi vào bẫy thu nhập bình quân” thật sự là một thông tin vô cùng xấu đối với toàn thể người VN, vì chúng ta sẽ chỉ còn tồn tại, kéo dài sự sống, chớ không còn đủ nguồn lực để phát triển, vì tất cả công sức của cả nền kinh tế đều phải dành cho trả nợ, và tình trạng nầy sẽ kéo dài không dưới 3 thập kỹ.
Từng người dân, mọi doanh nghiệp VN, sẽ luôn cãm thấy áp lực từ các loại chi, phí ngày càng tăng như việc tăng giá xăng, dầu, điện, nước, lệ phí giao thông,..các loại nghị định xử phạt ngày càng nặng, các kiểu quyết toán thuế, quyết toán quí, tháng, năm.. dể làm Knoc out bất cứ công ty sừng sỏ nào, các loại phí trong dân sẽ ngày càng vô cùng đa dạng, các kiểu thuế chồng thuế, phí chồng phí ngày càng phổ biến, theo “định hướng” ngày càng tăng không có điễm dừng,…
Tốc độ gia tăng của các loại phí sẽ phi nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng lương, sẽ làm cho người dân nghèo đi trông thấy. Tất cả nguồn thu sẽ được khai thác sử dụng triệt để cho nhu cầu trả nợ., kể cả “chi phí” cho bộ phận trung gian hành chính giúp ta làm động tác trả nợ. ( Và do đó, trong tương lai, chúng ta sẽ không còn phải lạ gì nữa với các “hiện tượng” trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, như việc một mặt là kêu gọi khoan sức dân, khoanh nợ, giãn nợ, giãn thuế..cho doanh nghiệp, nhưng mặt khác, việc giao chỉ tiêu thu ngân sách vẫn luôn phải năm sau cao hơn năm trước, cho dù có biết doanh nghiệp vẫn đang va se con tiếp tục phá sản như rạ.)
Nếu bạn ở trong một quốc gia đang bị nhốt bởi “chiếc bẫy thu nhập bình quân”, ngoài việc “ nổ lực làm hoài không thấy tiền đâu” do đã luôn luôn bị trực tiếp ( hoặc gián tiếp) điều tiết lên “trên” để góp phần trả nợ chung, mỗi doanh nghiệp chúng ta cũng rất dể rơi vào bẫy thu nhập bình quân trong quá trình kinh doanh : Nếu tiền thuê nhà quá cao, nếu phải vay chợ đen, nếu vung tay quá trán…có thể cả đời còn lại của chúng ta sẽ chỉ “làm cho chúng ăn”. Một khi đã sụp bẫy, việc phá sản luôn nằm trong tầm tay. Một số minh chứng về hiện tượng nầy, các bạn có thể tham khảo qua bài ” Cấp thiết giảm lãi vay nợ cũ ( http://www.thanhnien.com....-vay-no-cu.aspx )
Con, cháu nhiều thế hệ sau của chúng ta, nếu được chúng ta đầu tư cho học hành tới nơi tới chốn, có trình độ tương đương các nước như Hoa Kỳ, Canada, Singapore…, và nếu chúng làm việc thật sự có năng lực và siêng năng như mọi nhân viên của các quốc gia phát triển khác, nhưng một khi đã làm việc, công tác tại một công ty Việt Nam, có khả năng các cháu chỉ nhận được một mức lương khiên tốn bằng 1/10 so với đồng nghiệp tại các nước phương tây, vì các cháu cũng phải “gián tiếp” chung tay chung sức góp phần trả nợ do nhiều đời trước vay mượn rồi.
Sau khi tham gia TPP ( nếu được ), nền kinh tế Việt Nam sẽ “có vẽ phát triển” do sự “đóng góp” của các đối tác mới, một số chỉ số phát triển sẽ tăng, nhưng phần lớn sự đóng góp để vẽ lên “báo cáo thành tích phát triển” đó, đa phần đều sẽ xuất phát từ khối FDI, và dỉ nhiên, các chỉ số phát triển đó cũng sẽ không đóng góp được gì nhiều trong thực tế cho việc giãm “rỗ” nợ nần của chúng ta.
Một khi đã ở trong “bẫy”, cũng đồng nghĩa với việc bị cách ly với thế giới phát triển tự do đang nằm nên ngoài “bẫy”, việc tăng trưởng chung của toàn thế giới sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của những “ai” đang ở bên ngoài “bẫy”, trong đó có cả khối FDI ( cho dù họ đang đóng trên địa bàn của quốc gia dính “bẫy”) , nhưng chắc chắn sự tăng trưởng đó cũng không giúp được gì nhiều lắm cho quốc gia dính “bẫy”.
Một khi đã dính “bẫy”, chúng ta sẽ phải loay hoai dậm chân tại chỗ trước sự tiến bộ không ngừng của các nước khác. Nói cách khác, chúng ta luôn phải quay cuồng cho sự tồn tại của chính mình, không thể hòa nhập vào xu hướng/ tốc độ phát triển chung của thế giới cho dù rất muốn.
Khi đã dính “bẫy”, nội lực của quốc gia sẽ chỉ dao động theo một biểu đồ hình SIN trên một trục HOÀNH nằm ngang.
Là doanh nghiệp trong một quốc gia dính “bẫy”, vị trí doanh nghiệp của bạn sẽ ở đâu đó trên biểu đồ hình SIN với mức dự trử ngân sách chung (để hổ trợ cho sự phát triển) luôn được biểu thị bằng một biểu đồ nằm ngang cố định.
Bạn có thể không đến nổi nghèo nếu may mắn, nhưng cũng khó có thể giàu, và dỉ nhiên, việc doanh nghiệp của bạn có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu” chỉ là một điều viển vông nếu bạn vẫn còn kinh doanh ngay thẳng, thuế và phí sẽ không bỏ qua bat cơ hội “điều tiết” mọi dự trử (nếu có) của bạn.
Khi một quốc gia nào đó đã dính “bẫy”, người dân quốc gia đó cũng nên hiểu rằng, cả dân tộc họ đang luôn phải “tận tụy” hàng nhiều thập kỹ để đóng góp thêm cho khối tài sản khổng lồ của những tay tỉ phú “tư bản” nào đó đang chơi golf hay đang phơi nắng trên những chiếc du thuyền lộng lẫy ở đâu đó…
Khi một quốc gia nào đó đã dính “bẫy”, cũng đồng nghĩa với việc thể chế kinh tế của quốc gia đó thật sự có “vấn đề”, nếu muốn thoát khỏi “bẫy”, mà vẫn không chịu thay đổi và hoàn chỉnh nhanh thể chế tốt đẹp, khoa học hơn, dân tộc đó chắc chắn sẽ ngày càng lún sâu vào nợ nần., Tuy cũng có thể có những người siêu giàu nhờ nắm bắt được “cơ hội” trong “ao nước đục”, nhưng cũng sẽ hình thành một cách song hành một số lượng vô cùng lớn những người thuộc diện nghèo “ rớt mùng tơi”, đặc biệt là ở lĩnh vực nông nghiệp.
Sau TPP, cả thế giới sẽ nhảy vào kinh doanh và phát triễn trên mãnh đất VN, nhưng có lẽ hai từ “phát triển” sẽ chỉ thành hiện thực đối với một số rất ít doanh nghiệp VN có tiềm lực vượt trội ( trong đó cũng sẽ có một số doanh nghiệp đã tạo được nội lực nhờ vào OPM trước đây). Tuy nhiên, đối với đa phần còn lại, nếu chỉ cần còn tồn tại được thì cũng phải được xem như một thành tích vượt bậc đáng biểu dương.
Lĩnh vực dịch vụ sẽ phát triển tốt sau TPP, nhưng do cạnh tranh, doanh nghiệp VN ta chỉ đạt ở mức khá chứ khó giàu, chủ yếu là B phẩy cho doanh nghiệp nước ngoài.
Trong sự tương tác của gia đoạn hội nhập sắp tới, trong một comment trước đây (http://danluat.thuvienphapluat.vn/mot-bai-viet-dang-suy-ngam-98197.aspx ), tôi có dự báo về viển cảnh không sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam ta trong thời gian tới., Tuy nhiên, một khi đã rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, có lẽ viển cảnh nầy sẽ trở thành sự thật, nhưng với gam màu có thể còn còn tối hơn.,
Thật ra, Việt Nam ta chỉ mới chính thức bắt đầu “tự chui vào bẫy” ngay sau khi tham gia WTO, do thời thế đã tạo ra các dòng tiền kiếm được quá dể dàng từ nhiều nguồn vay mượn tuôn vào như nước, cùng với việc vung tay quá…nóc nhà, đã làm hao phí xã hội tăng quá cao so với hiệu suất thật sự của dòng tiền mang lại.
Chỉ tiêu TFP – chỉ tiêu đo lường năng suất của đồng thời cả “lao động” và “vốn” cho nền kinh tế – được giáo sư người Nhật đưa ra ( mà trong comment nói trên của tôi cũng có đề cập) là chỉ số quan trọng nói lên NĂNG SUẤT của toàn XÃ HỘI.
Việc ưu tiên sử dụng nguồn lực khổng lồ cho doanh nghiệp nhà nước, nhưng hiệu suất của những doanh nghiệp nhà nước nầy mang lại cho xã hội thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp dân doanh có nguồn lực khiêm tốn .,Việc lãng phí, hao phí do tham nhũng trong đầu tư công, chi phí do việc phải gồng gánh bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả…là những nguyên nhân chính làm NĂNG SUẤT XÃ HỘI trở nên vô cùng yếu kém, góp phần quyết định đưa chúng ta sớm sập “bẫy”
Cho đến thời điễm hiện nay, mặt dù đã chính thức rơi vào “bẫy thu nhập bình quân”, nhưng những hiện tượng như phung phí trong đầu tư công, tham nhũng, đầu tư vẫn dàn trãi…. vẫn còn tiếp tục…, thì chắc chắn viec lưu lại trong “bẫy” của Việt Nam mỗi lần công thêm về thời gian sẽ phải tính từng thập kỷ.
Đương nhiên, việc sập “bẫy” thì phải tìm lối thoát., Tuy nhiên, một điều đáng buồn, là có lẽ hiện nay, chúng ta vẫn chưa tìm thấy con đường nào khả thi để thoát., và như phó hiệu trưởng Trường Đại học kinh tế Quốc dân Trần Thọ Đạt nhận xét : dư địa cho tăng trưởng theo chiều rộng của mô hình kinh tế Việt Nam không còn, do vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, Việt Nam cần tạo ra động lực mới cho tăng trưởng.Nhưng đây là điều khó khăn. Ông Đạt băn khoăn: “Những động lực mới cho tăng trưởng là gì? Làm thế nào để tạo ra động lực này?”.
Thật ra, cách đặt vấn đề như ông Đạt về động lực tăng trưởng là không sai, nhưng theo tôi, hiện nay, không còn động lực tăng trưởng nào đủ lớn để giúp chúng ta sớm thoát “bẫy”, chưa nói là khả năng nằm luôn trong “bẫy” là rất cao.
Theo tôi, phải có một môi trường kinh doanh hoàn toàn mới, hơn hẳn hiện nay, họa may mới có thể tạo ra động lực tăng trưởng mới hiệu quả hơn hẳn, mà môi trường nầy kinh doanh nầy chỉ có thể có được khi và chỉ khi ta thay đổi triệt để thể chế kinh tế hiện nay., một thể chế thật sự pháp quyền, đủ sức tiêu diệt tham nhũng, tạo công bằng trong cạnh tranh, trong phân bổ nguồn lực, tạo mọi sự công bằng giữa người với người…
Chúng ta đang có một cơ hội thật sự lớn là, sắp tới, nếu chúng ta tham gia được vàoTPP, một mặt là nhờ sức ép từ luật chơi chung, một mặt là nếu chúng ta quyết tâm thay đổi, biết nhanh chóng nắm bắt cơ hội, thì đây có lẽ là cơ hội cuối cùng trong vòng 50 năm trở lại đây để chúng ta thay đổi thể chế kinh tế, tạo cơ hội phát triển để có thể sớm thoát “bẫy”, góp phần thay đổi bộ mặt của dân tộc Việt Nam
 
Hạng D
15/11/07
2.538
11.914
113
Việt nam - Sài gòn
os.com
Đánh dấu đoạn này để xem sau năm 2014 chuyện gì sẽ xảy ra .


viethoangdk nói:
Cho nên với tất cả những nhận định trên, để bảo toàn vốn tốt nhất trong năm 2014 thì đồng đô la Hoa Kỳ là nơi tốt nhất cho dân Việt, nếu bạn không đủ sức là những con kền kền đi nhặt xác chết rẻ mạt để gầy dựng và phát triển.
http://bshohai.blogspot.dk/2013/12/cuoi-nam-2013-lam-gi-e-bao-toan-von.html
 
Status
Không mở trả lời sau này.