Nếu trước đây các nhà sản xuất ấn định thay dầu nhờn khi xe chạy được 4.000 km nay con số này có thể lên đến 16.000 km đối với xe thông dụng và 24.000 km đối với một số xe cao cấp.[pagebreak][/pagebreak]
Mọi người đều biết vai trò quan trọng của dầu nhờn trong việc bảo dưỡng động cơ và phải thay dầu nhờn thường xuyên để động cơ không bị hư hỏng. Nhưng một số vẫn chưa biết từ khi động cơ 4 thì ra đời đến nay, hệ thống bôi trơn của động cơ đã có nhiều cải tiến, nên việc chăm sóc bảo dưỡng động cơ đã khác trước rất nhiều. Nếu trước đây các nhà sản xuất ấn định thay dầu nhờn khi xe chạy được 4.000 km nay con số này có thể lên đến 16.000 km đối với xe thông dụng và 24.000 km đối với một số xe cao cấp.
Để bôi dầu nhờn lên các chi tiết cơ khí, các nhà công nghệ áp dụng những phương pháp : ngâm nhúng, vung tát, phun áp lực và phun tưới.
Tùy thuộc vào trình độ công nghệ chế tạo, các nhà sản xuất áp dụng 2 trong những phương pháp nêu trên.
Cải tiến quan trọng của hệ thống bôi trơn động cơ là chuyển từ công nghệ “ngâm và vung té” sang công nghệ “phun tưới và phun áp lực” .
Công nghệ bôi trơn bằng ngâm nhúng và vung tát
Công nghệ này được áp dụng ở những động cơ đời đầu. Lúc này động cơ chưa được trang bị bơm dầu nhờn và thể đưa được hệ thống ống dẫn dầu nhờn vào thân máy và các chi tiết cơ khí.
Tùy theo tính năng, các bộ phận cơ khí được bôi trơn bằng ngâm nhúng trong dầu nhờn hoặc được vung tát dầu. Bộ phận được ngâm nhúng trong dầu là trục khuỷu. Tại đầu nối thanh truyền pít tông với trục khủy có gắn 1 chi tiết hình dạng gầu múc (rod dipper). Khi trục khủy quay, gầu múc sẽ tát dẩu nhờn lên xy lanh, trục cam và hệ thống cò mỏ (cần bẩy) và lò xo xu báp.
Công nghệ bôi trơn này tồn tại trong thời gian khá dài tuy bọc lộ nhiều nhược điểm :
-Không cấp đủ dầu bôi trơn cò su báp khiến bộ phận này mau mòn và phải liên tục điều chỉnh.
-Trục khuỷu quay trong dầu nhờn, chịu lực cản của dầu nhờn làm giảm công suất động cơ.
-Cặn bẩn luôn bị khuấy động, trộn lẫn với dầu nhờn khiến dầu nhờn mau bị biến chất.
Công nghệ phun áp lực và vung tát
Nhằm loại bỏ lực cản dầu nhờn tác động vào trục khuỷu. Thay vì được ngâm nhúng trong dầu, trục khuỷu được tiết kế cao hơn mực dầu nhờn tối đa và được bôi trơn bằng bơm dầu nhờn áp lực cao. Dầu nhờn được bơm vào hệ thống đường dẫn khoan trong trục khuỷu đến các khớp nối thanh truyền pít tông và trục khuỷu .
Các bộ phận khác như xy lanh, trục cam, cần bẩy và lò xo xu báp vẫn được bôi trơn bằng vung tát.
Công nghệ này giảm bớt được lực cản khi trục khủy quay trong dầu nhờn. Do còn hiện diện của gầu múc (rod dipper) nên lực bị thất thoát còn khá lớn, các nhược điểm khác của công nghệ vung tát vẫn còn .
Lúc này hệ thống dầu nhờn đã được trang bị lọc dầu nhưng chỉ phần dầu nhờn bơm vào trục khuỷu mới được lọc, phần vung tát vào xy lanh, trục cam v.v không được lọc làm giảm tác dụng bôi trơn chống mài mòn của dầu nhờn.
Công nghệ phun tưới và phun áp lực
Công nghệ này hiện đang được áp dụng. Trái tim của hệ thống là bơm dầu nhờn.
Bơm dầu nhờn ngoài nhiệm vụ cung cấp dầu áp lực cao cho khớp nối trục khuỷu, còn được phun dầu nhờn vào trục cam và xy lanh (xem video). Gầu múc (rod dipper) không còn, phương pháp bôi trơn bằng vung tát hoàn toàn được loại bỏ. Như vậy phun áp lực giống như những mạch nước ngầm trào lên mặt đất, phun tưới giống như trận mưa rào.
Toàn bộ dầu nhờn trước khi bôi trơn các chi tiết động cơ đều phải qua bộ phận lọc, tại đây những bụi carbon hay kim loại có đường kính lớn hơn 30 micron đều được giữ lại. Ở trước lọc dầu nhờn có 1 van điều áp, nhờ van này khi tắt máy, dầu nhờn vẫn được giữ trong hệ thống đường dẫn. Nên khi khởi động động cơ, chỉ trong vài tua máy đầu tiên dầu nhờn đã đến với các chi tiết cần bôi trơn. Không cần chờ vài phút như trước đây.
Ở công nghệ phun tưới và phun áp lực tuy đã loại bỏ được gần như hoàn toàn lực cản của dầu nhờn lên trục khuỷu. Nhưng trên những con đường gập gềnh, do mặt dầu bị sóng sánh. Hay khi xe leo hoặc xuống dốc, vẫn có 1 phần trục khuỷu bị nhúng sâu trong dầu nhờn, vẫn xảy ra tình trạng dầu nhờn tạo lực cản đối với trục khuỷu. Ở loại động cơ trang bị công nghệ này, nếu ta đổ dầu nhờn trên mức tối đa của cây thăm dầu, dầu nhờn ngập trục khuỷu sẽ làm giảm hiệu suất động cơ.
Công nghệ các- te khô
Hiện nay chỉ mới trang bị cho xe cao cấp và xe hiệu suất cao. Các te không còn là nơi chứa từ 4 đến 6 lít dầu nhờn như ở dòng xe phổ thông. Khi dầu nhờn hoàn thành một chu trình bôi trơn sẽ rơi xuống các te. Tại vị trí thấp nhất của các te dầu nhờn sẽ được bơm dầu thứ nhất bơm vào một bình chứa. Tại đây, một bơm dầu thứ 2 sẽ đưa dầu đi bôi trơn các chi tiết ở động cơ. Bình chứa này có hình dạng bất kỳ và có thể đặt ở bất cứ nơi nào nhằm tận dụng khoảng trống của khoang động cơ.
Với công nghệ các-te khô, lực cản của dầu nhờn đối với trục khuỷu hoàn toàn được loại bỏ trong mọi tình huống đường xá. Tác động khuấy bùn lắng ở các- te của trục khuỷu cũng bị loại bỏ hoàn toàn giúp kéo dài tuổi thọ dầu nhờn. Trục khuỷu có thể hạ thấp sát đáy các- te. Trọng tâm động cơ được hạ thấp xe sẽ chạy ổn định hơn.
Theo auto.howstuffworks, một số người đã nâng thêm 15 mã lực cho động cơ bằng cách độ công nghệ các te khô cho xe của họ. Lưu ý sơ đồ 3 nhập chung 2 bơm dầu làm 1. Đường màu đỏ là đường dẫn dầu đi, đường xanh là dẫn về bình chứa :
Một số kiểu mẫu xe được trang bị công nghệ các te khô, nhà sản xuất cho biết có thể xe chạy được 24.000 km mới cần thay dầu nhờn. Lưu ý những con số do các nhà sản xuất đưa ra là khi ta sử dụng dầu nhờn gốc dầu mỏ, còn khi sử dụng dầu nhờn tổng hợp hoàn toàn, tuổi thọ của dầu nhờn tăng gấp đôi. (H4)
Ngọc Đỉnh