Địa điểm thứ 2 không thể không đến là hầm tướng De Castries nằm cạnh sân bay Điên Biên. Ngoài đường bộ thì có thể đi bằng máy bay từ Hà Nội trong 1 giờ bằng máy bay ATR
Thông tin về tướng De Catries và được tóm lược như sau:
Trong chuyến cùng đi thăm Điện Biên Phủ ngày 29 tháng 11, 1953 hai tướng Navarre và Cogny đồng ý với nhau chọn Đại tá Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries thay tướng Gilles chỉ huy căn cứ Điện Biên Phủ.
Ngày 8 tháng 12, 1953 Đại tá De Castries đến nhận chức ở Điện Biên Phủ. Tất cả lực lượng dưới quyền ông ở Điện Biên Phủ được mệnh danh là “Binh đoàn hành quân Tây bắc.” De Castries thuộc dòng võ tướng. Tổ tiên ông đã phục vụ nước Pháp từ hồi có những cuộc Thập Tự Chinh ở thế kỷ XII. Ông đăng lính vào Kỵ binh Pháp lúc 20 tuổi sau đó theo học trường sĩ quan Kỵ binh Saumur năm 1925.
Khi Thế Chiến II bùng nổ vào năm 1939 De Castries phục vụ trong lực lượng Biệt kích của Pháp. Tháng 6, 1940 trong một cuộc đụng độ rất gay go với một lực lượng áp đảo của Đức, De Castries bị thương và bị bắt. Đến tháng 3, 1941 ông vượt ngục về Pháp rồi trốn ra ngoại quốc gia nhập lực lượng Pháp Quốc Tự Do ở Châu Phi, sau đó chiến đấu ở Ý. De Castries bị thương lần thứ hai ở đây nhưng vẫn tham dự vào cuộc đổ bộ lên miền Nam nước Pháp và các chiến dịch tiếp theo cho đến khi quân Đồng Minh toàn thắng Đức Quốc Xã. De Castries đã chiến đấu ở Đông Dương nhiều lần. Năm 1946 ông làm Chi đoàn trưởng một chi đoàn Kỵ binh. Hết nhiệm kỳ, De Castries trở về Pháp. Đến năm 1951 tướng De Lattre đã yêu cầu cho De Castries sang Đông Dương lần thứ hai. Với cấp bậc Trung tá, trong nhiệm kỳ này, De Castries được tướng De Lattre giao cho chỉ huy một Liên đoàn lưu động. Liên đoàn De Castries đã dự các trận gay go như Vĩnh Yên, Hòa Bình.
Đối với tướng Navarre thì De Castries đã quen biết từ lâu. Lúc De Castries là Trung sĩ thì Navarre là Trung úy, cả hai cùng ở trong 1 Trung đoàn Kỵ binh. Trong chiến dịch tiến công sang Đức De Castries làm Chi đoàn trưởng 1 Chi đoàn của Trung đoàn Kỵ binh Bắc Phi số 3 dưới quyền Navarre.
Với quá trình binh nghiệp và sự quen biết như vậy nên không ngạc nhiên gì khi De Castries được tướng Navarre chọn làm người chỉ huy căn cứ không-lục Điện Biên Phủ. Tướng Navarre rất tin tưởng vào khả năng điều binh, sự nhậy bén trong việc sử dụng địa thế và tinh thần tiến công của De Castries. Về phần tướng Cogny thì ông cũng không xa lạ gì với De Castries vì cả hai đều thuộc nhóm sĩ quan ưu tú mà tướng De Lattre đã kéo sang Đông Dương năm 1951.
Vào ngày 30 tháng 11, 1953 khi đến thăm Thái Bình, tướng Navarre báo cho De Castries lúc đó đang làm Tư Lệnh Phân Khu Nam ở Bắc phần biết ông đã quyết định cử De Castries làm Chỉ huy trưởng căn cứ Điện Biên Phủ. De Castries có ý thoái thác viện cớ không thích hợp với công tác thiết lập một pháo lũy. Tướng Navarre nói: “Tướng Gilles muốn có một Nà Sản thứ hai. Tôi không tán thành. Điện Biên Phủ phải là một căn cứ tiến công nên tôi mới chọn ông” (1) Tướng Cogny thêm vào: “Chúng ta cần có một kỵ binh sơn cước. Ông sẽ là người kỵ binh đó, tung hoành khắp những vùng rộng lớn ở Thượng du.” (2) Rủi thay cho Đại Tá De Castries, thung lũng Điện Biên Phủ không phải là đất dụng võ của Kỵ binh. Thực vậy, người ta không khỏi ngạc nhiên khi cả tướng Navarre lẫn tướng Gogny đều nhấn mạnh đến vai trò của Kỵ binh ở Điện Biên Phủ. Dường như hai người đã dự kiến một trận đánh vừa thủ vừa công trong khu tam giác Điện Biên Phủ – Lai Châu – Tuần Giáo bất kể những thực tế sờ sờ trước mặt: thứ nhất, ở vùng Tây bắc Việt Nam, Thiết giáp không thể ra khỏi một trục lộ duy nhất đó là con đường hàng tỉnh số 41 kẹp giữa rừng núi nối Điện Biên Phủ với Tuần Giáo và Lai Châu; thứ hai, tuyến đường giao thông này hoàn toàn do đối phương khống chế; thứ ba, một chi đoàn xe tăng không thể nào gây được một tác dụng đáng kể đối với chiến sự ở vùng này. Rất có thể tướng Navarre mơ tưởng như Jules Roy đã viết: “Một thứ men tinh thần thấm dần vào người ông. Ông hít làn không khí ấm, ông ít khi chớp mắt trước ánh nắng, và ông cũng không dùng kính mát để che nắng ngoại trừ lúc mặc thường phục. Ông hình dung Castries phóng dọc theo thung lũng, lướt qua các đỉnh đồi, phải, Castries, con người từng lãnh đạo cánh quân tiên phong của ông trong trận Karlsruhe, sẽ làm những điều phi thường với những xe thiết giáp tháo rời từng bộ phận mang tới đây. Còn những đỉnh núi che khuất chân trời ở mọi phía, Navarre sẽ cho Không Quân bắn phá. Nếu Việt Minh liều lĩnh đến Điện Biên Phủ thì Castries sẽ diệt chúng bằng hỏa lực của pháo binh và súng máy…”

Thông tin về tướng De Catries và được tóm lược như sau:
Trong chuyến cùng đi thăm Điện Biên Phủ ngày 29 tháng 11, 1953 hai tướng Navarre và Cogny đồng ý với nhau chọn Đại tá Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries thay tướng Gilles chỉ huy căn cứ Điện Biên Phủ.
Ngày 8 tháng 12, 1953 Đại tá De Castries đến nhận chức ở Điện Biên Phủ. Tất cả lực lượng dưới quyền ông ở Điện Biên Phủ được mệnh danh là “Binh đoàn hành quân Tây bắc.” De Castries thuộc dòng võ tướng. Tổ tiên ông đã phục vụ nước Pháp từ hồi có những cuộc Thập Tự Chinh ở thế kỷ XII. Ông đăng lính vào Kỵ binh Pháp lúc 20 tuổi sau đó theo học trường sĩ quan Kỵ binh Saumur năm 1925.
Khi Thế Chiến II bùng nổ vào năm 1939 De Castries phục vụ trong lực lượng Biệt kích của Pháp. Tháng 6, 1940 trong một cuộc đụng độ rất gay go với một lực lượng áp đảo của Đức, De Castries bị thương và bị bắt. Đến tháng 3, 1941 ông vượt ngục về Pháp rồi trốn ra ngoại quốc gia nhập lực lượng Pháp Quốc Tự Do ở Châu Phi, sau đó chiến đấu ở Ý. De Castries bị thương lần thứ hai ở đây nhưng vẫn tham dự vào cuộc đổ bộ lên miền Nam nước Pháp và các chiến dịch tiếp theo cho đến khi quân Đồng Minh toàn thắng Đức Quốc Xã. De Castries đã chiến đấu ở Đông Dương nhiều lần. Năm 1946 ông làm Chi đoàn trưởng một chi đoàn Kỵ binh. Hết nhiệm kỳ, De Castries trở về Pháp. Đến năm 1951 tướng De Lattre đã yêu cầu cho De Castries sang Đông Dương lần thứ hai. Với cấp bậc Trung tá, trong nhiệm kỳ này, De Castries được tướng De Lattre giao cho chỉ huy một Liên đoàn lưu động. Liên đoàn De Castries đã dự các trận gay go như Vĩnh Yên, Hòa Bình.
Đối với tướng Navarre thì De Castries đã quen biết từ lâu. Lúc De Castries là Trung sĩ thì Navarre là Trung úy, cả hai cùng ở trong 1 Trung đoàn Kỵ binh. Trong chiến dịch tiến công sang Đức De Castries làm Chi đoàn trưởng 1 Chi đoàn của Trung đoàn Kỵ binh Bắc Phi số 3 dưới quyền Navarre.
Với quá trình binh nghiệp và sự quen biết như vậy nên không ngạc nhiên gì khi De Castries được tướng Navarre chọn làm người chỉ huy căn cứ không-lục Điện Biên Phủ. Tướng Navarre rất tin tưởng vào khả năng điều binh, sự nhậy bén trong việc sử dụng địa thế và tinh thần tiến công của De Castries. Về phần tướng Cogny thì ông cũng không xa lạ gì với De Castries vì cả hai đều thuộc nhóm sĩ quan ưu tú mà tướng De Lattre đã kéo sang Đông Dương năm 1951.
Vào ngày 30 tháng 11, 1953 khi đến thăm Thái Bình, tướng Navarre báo cho De Castries lúc đó đang làm Tư Lệnh Phân Khu Nam ở Bắc phần biết ông đã quyết định cử De Castries làm Chỉ huy trưởng căn cứ Điện Biên Phủ. De Castries có ý thoái thác viện cớ không thích hợp với công tác thiết lập một pháo lũy. Tướng Navarre nói: “Tướng Gilles muốn có một Nà Sản thứ hai. Tôi không tán thành. Điện Biên Phủ phải là một căn cứ tiến công nên tôi mới chọn ông” (1) Tướng Cogny thêm vào: “Chúng ta cần có một kỵ binh sơn cước. Ông sẽ là người kỵ binh đó, tung hoành khắp những vùng rộng lớn ở Thượng du.” (2) Rủi thay cho Đại Tá De Castries, thung lũng Điện Biên Phủ không phải là đất dụng võ của Kỵ binh. Thực vậy, người ta không khỏi ngạc nhiên khi cả tướng Navarre lẫn tướng Gogny đều nhấn mạnh đến vai trò của Kỵ binh ở Điện Biên Phủ. Dường như hai người đã dự kiến một trận đánh vừa thủ vừa công trong khu tam giác Điện Biên Phủ – Lai Châu – Tuần Giáo bất kể những thực tế sờ sờ trước mặt: thứ nhất, ở vùng Tây bắc Việt Nam, Thiết giáp không thể ra khỏi một trục lộ duy nhất đó là con đường hàng tỉnh số 41 kẹp giữa rừng núi nối Điện Biên Phủ với Tuần Giáo và Lai Châu; thứ hai, tuyến đường giao thông này hoàn toàn do đối phương khống chế; thứ ba, một chi đoàn xe tăng không thể nào gây được một tác dụng đáng kể đối với chiến sự ở vùng này. Rất có thể tướng Navarre mơ tưởng như Jules Roy đã viết: “Một thứ men tinh thần thấm dần vào người ông. Ông hít làn không khí ấm, ông ít khi chớp mắt trước ánh nắng, và ông cũng không dùng kính mát để che nắng ngoại trừ lúc mặc thường phục. Ông hình dung Castries phóng dọc theo thung lũng, lướt qua các đỉnh đồi, phải, Castries, con người từng lãnh đạo cánh quân tiên phong của ông trong trận Karlsruhe, sẽ làm những điều phi thường với những xe thiết giáp tháo rời từng bộ phận mang tới đây. Còn những đỉnh núi che khuất chân trời ở mọi phía, Navarre sẽ cho Không Quân bắn phá. Nếu Việt Minh liều lĩnh đến Điện Biên Phủ thì Castries sẽ diệt chúng bằng hỏa lực của pháo binh và súng máy…”
Bên trong hầm chỉ huy của tướng De Castries
[blockquote]HOAN HÔ CHIẾN SỸ ĐIỆN BIÊN
Tố Hữu
Tin về nửa đêm
Hoả tốc ! Hoả tốc !
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn đỏ lửa...
Hoan hô chiến sỹ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp !
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà !
Vinh quang Hồ Chí Minh
Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại !
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng !
Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hoà vui chung...
Hoan hô chiến sỹ Điện Biên
Chiến sỹ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn !
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường
cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống !
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng :
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng,
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết,
Quyết trận này quét sạch Điện Biên !
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời ?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt !
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt !
Của ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta !
Chúng bay chỉ một đường ra :
Một là tử địa, hai là tù binh.
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm !
Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy
Trên đầu bay, thác lửa hờn căm !
Trông : bốn mặt, luỹ hầm sập đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông : chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng !
Hoan hô chiến sỹ Điện Biên !
Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông
Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít
Anh sẽ nói : "Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi !
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập, hoà bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên !"
05 - 1954. [/blockquote]





[blockquote]HOAN HÔ CHIẾN SỸ ĐIỆN BIÊN
Tố Hữu
Tin về nửa đêm
Hoả tốc ! Hoả tốc !
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn đỏ lửa...
Hoan hô chiến sỹ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp !
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà !
Vinh quang Hồ Chí Minh
Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại !
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng !
Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hoà vui chung...
Hoan hô chiến sỹ Điện Biên
Chiến sỹ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn !
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường
cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống !
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng :
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng,
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết,
Quyết trận này quét sạch Điện Biên !
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời ?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt !
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt !
Của ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta !
Chúng bay chỉ một đường ra :
Một là tử địa, hai là tù binh.
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm !
Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy
Trên đầu bay, thác lửa hờn căm !
Trông : bốn mặt, luỹ hầm sập đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông : chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng !
Hoan hô chiến sỹ Điện Biên !
Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông
Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít
Anh sẽ nói : "Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi !
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập, hoà bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên !"
05 - 1954. [/blockquote]
Phố cổ Hội An.
Phố củ đây nhưng người xưa đâu rồi...!?
AE đang chờ món nước cơm nổi tiếng ở Phố Cổ .






Phố củ đây nhưng người xưa đâu rồi...!?

AE đang chờ món nước cơm nổi tiếng ở Phố Cổ .

GLK làm dáng bên Phố Cổ .
Những nhân vật đầy tai tiếng .
Bác TuanBau luôn khoe hàng hình e chụp là đẹp nhất .





Những nhân vật đầy tai tiếng .


Bác TuanBau luôn khoe hàng hình e chụp là đẹp nhất .


Anh chọn màu nào ?

Một mình e lẻ loi vậy sao ?

Ê góc này e đã xí trước rồi đó nha .


Bắt đầu rời Hội An tiến về Đà Nẳng



Last edited by a moderator:
Wow biển Miền Trung sao đẹp quá, ta phải dạo chơi vài vòng trước lúc bắc tiến .
Lái xe rất đẹp trai.





Lái xe rất đẹp trai.




Đà Nẵng bây giờ thay đổi nhiều quá nhưng có một vấn đề cần phải thay đổi là các xe gắn máy đi qua đường không cần nhìn trước nhìn sau. Nhiều lần 3 chiếc xe thót tim vì xe gắn máy ở đây
Đà Nẵng bây giờ thay đổi nhiều quá nhưng có một vấn đề cần phải thay đổi là các xe gắn máy đi qua đường không cần nhìn trước nhìn sau. Nhiều lần 3 chiếc xe thót tim vì xe gắn máy ở đây