định lượng là cái này hả mấy anh
6. Xét nghiệm HBV-DNA (Đo tải lượng virut viêm gan B)
Phần lõi của virut viêm gan B chứa DNA (axit nhân). Khi virut viêm gan B nhân bản hoàn chỉnh trong tế bào gan sẽ tạo ra những hạt virut hoàn chỉnh có phần vỏ (chứa kháng nguyên HBsAg) và lõi HBV-DNA. Sự nhân bản của virut viêm gan B sẽ phá hủy tế bào gan, gây tổn thương cho gan, các hạt virut hoàn chỉnh sẽ xuất hiện trong máu kèm theo men gan (men ALT) tăng trong máu người nhiễm virut.
Xét nghiệm HBV-DNA sẽ cho biết số lượng hạt virut viêm gan B hoàn chỉnh có trong máu tại thời điểm được xét nghiệm. Phương pháp được sử dụng phổ biến hiện nay để kiểm tra HBV-DNA là kỹ thuật Realtime PCR. Trong xét nghiệm này, máu của người bệnh sau khi lấy (3 ml máu tĩnh mạch cho một lần xét nghiệm) được cho vào ống thu máu chuyên dụng EDTA, sau đó, mẫu máu được tách huyết thanh hoặc huyết tương, DNA của virut sẽ được nhân bản trong ống nghiệm tạo nên hàng tỷ bản sao mới. Kỹ thuật xét nghiệm HBV-DNA có độ nhạy rất cao, cho phép phát hiện được HBV-DNA trong mẫu thử dù số lượng hạt virut hoàn chỉnh trong máu người bệnh rất thấp.
Số lượng virut viêm gan B trong máu được biểu thị bằng đơn vị copies/ml hoặc bằng đơn vị IU/ml. Có thể quy đổi giữa hai loại đơn vị này: 1 IU/ml tương đương 5,82 copies/ml.
Tùy thuộc công nghệ sử dụng trong kỹ thuật xét nghiệm mà mỗi loại xét nghiệmđo tải lượng virut viêm gan B sẽ có ngưỡng phát hiện (ngưỡng định lượng) khác nhau, có thể là 50 copies/ml, 100 copies/ml hay 300 copies/ml. Ngưỡng phát hiện cho thấy khả năng nhận diện (phát hiện) số lượng virut tối thiểu có trong máu tại thời điểm xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm HBV-DNA dưới ngưỡng phát hiện (HBV-DNA âm tính) có nghĩa số lượng virut trong máu rất thấp.Như vậy, HBV-DNA âm tính không có nghĩa là virut đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong cơ thể, cho nên người bệnh vẫn phải tiếp tục được theo dõi sau đó cho đến khi kết quả định lượng HBsAg không còn tìm thấy kháng nguyên này trong máu.
Kết quả xét nghiệm đo tải lượng HBV có ý nghĩa góp phần xác định thời điểm cần tiến hành điều trị bằng thuốc ức chế virut. Xuyên suốt quá trình điều trị người bệnh cần đo tải lượng virut định kỳ để đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào sự thay đổi tải lượng virut qua mỗi lần được kiểm tra. Nếu tải lượng virut giảm dần nhưng lại bùng phát gia tăng ở lần kiểm tra tiếp theo, khả năng cao đã xảy ra tình trạng virut kháng thuốc. Khi đó, việc thay đổi phác đồ điều trị khác cần được nghiên cứu và chỉ định để người bệnh được tiếp tục được điều trị.