Hành trình tiếp theo của em là Bà Nà hills - Đường lên tiên cảnh
Do hành trình này em đi bằng xe máy với nhỏ bạn em, đồng thời máy chụp hình hết pin chỉ có thể dùng iphone nên không có hình chụp mô tả đường đi cho các bác, em xin mạn phép dùng hình em đã chụp trong chuyến đi năm 2010 của em minh họa ạ (nói chung là sau 2 năm thì em đi lại thấy vẫn như rứa
Đường lên Bà Nà khá vắng xe và tốt, nên có những lúc em kéo max ga, vào cua với tốc độ cao mà không sợ gì cả
Do hành trình này em đi bằng xe máy với nhỏ bạn em, đồng thời máy chụp hình hết pin chỉ có thể dùng iphone nên không có hình chụp mô tả đường đi cho các bác, em xin mạn phép dùng hình em đã chụp trong chuyến đi năm 2010 của em minh họa ạ (nói chung là sau 2 năm thì em đi lại thấy vẫn như rứa

Đường lên Bà Nà khá vắng xe và tốt, nên có những lúc em kéo max ga, vào cua với tốc độ cao mà không sợ gì cả





Tới nơi, hiện nay chỉ có 1 cách duy nhất để lên núi đó là dùng cáp treo. Đà Nẵng áp dụng chế độ 2 giá cho người Đà Nẵng và người ngoại tỉnh.
Em bị dứt 2 vé ngoại tỉnh với bi nhiêu đây lúa, gần sạch kinh phí hôm đó luôn (em tự đề ra kinh phí 1 ngày du lịch em dùng không quá 500k, trường hợp đặc biệt thì 1tr)
Sau đó là lên tuyến cáp dài nhất và có độ cao cao nhất thế giới. Sơ nét về tuyến cáp này theo wikipedia:
Toàn bộ tuyến cáp treo bao gồm 22 trụ, 94 cabin, công suất 1500 khách/giờ, vận tốc trung bình 6m/s
Ngày 25 - 3 - 2009, Cáp treo Bà Nà chính thức được khánh thành, lập 2 kỷ lục Guinness:
Cáp treo 1 dây dài nhất (Longest non - stop cable car): 5.042,62 m
Cáp treo có độ cao chênh lệch giữa ga trên và ga dưới lớn nhất (The highest non - stop cable car): 1.291,81 m
Quang cảnh 2 bên cabin cáp treo trên đường lên núi (có sử dụng 1 số ảnh tư liệu nên các bác đừng ngạc nhiên khi nhìn thời tiết và cabin có điểm khác nhau ạ)
Em bị dứt 2 vé ngoại tỉnh với bi nhiêu đây lúa, gần sạch kinh phí hôm đó luôn (em tự đề ra kinh phí 1 ngày du lịch em dùng không quá 500k, trường hợp đặc biệt thì 1tr)


Sau đó là lên tuyến cáp dài nhất và có độ cao cao nhất thế giới. Sơ nét về tuyến cáp này theo wikipedia:
Toàn bộ tuyến cáp treo bao gồm 22 trụ, 94 cabin, công suất 1500 khách/giờ, vận tốc trung bình 6m/s
Ngày 25 - 3 - 2009, Cáp treo Bà Nà chính thức được khánh thành, lập 2 kỷ lục Guinness:
Cáp treo 1 dây dài nhất (Longest non - stop cable car): 5.042,62 m
Cáp treo có độ cao chênh lệch giữa ga trên và ga dưới lớn nhất (The highest non - stop cable car): 1.291,81 m

Quang cảnh 2 bên cabin cáp treo trên đường lên núi (có sử dụng 1 số ảnh tư liệu nên các bác đừng ngạc nhiên khi nhìn thời tiết và cabin có điểm khác nhau ạ)







Toàn cảnh tuyến cáp treo và phía xa xa là thành phố Đà Nẵng trong một buổi chiều đầy nắng và gió
đường lên chùa Linh Ứng Bà Nà một trong 3 ngôi chùa Linh Ứng tại Đà Nẵng)
Vườn giác ngộ sau chùa
Phía trên cao là khu resort nghỉ dưỡng trên núi
Nhưng trước tiên là phải ngó qua tượng Phật Như Lai lớn trên núi đã
Tượng Phật tổ nhìn từ cáp treo lên khu resort (tuyến cáp số 2)
Khu làng Pháp tại Bà Nà đang được xây dựng và sẽ hoàn thành vào năm 2014
Cụm giải trí 3 tầng của Bà Nà
Khoát tay làm quen chụp hình cái nhá bạn


đường lên chùa Linh Ứng Bà Nà một trong 3 ngôi chùa Linh Ứng tại Đà Nẵng)

Vườn giác ngộ sau chùa

Phía trên cao là khu resort nghỉ dưỡng trên núi

Nhưng trước tiên là phải ngó qua tượng Phật Như Lai lớn trên núi đã

Tượng Phật tổ nhìn từ cáp treo lên khu resort (tuyến cáp số 2)

Khu làng Pháp tại Bà Nà đang được xây dựng và sẽ hoàn thành vào năm 2014


Cụm giải trí 3 tầng của Bà Nà





Khoát tay làm quen chụp hình cái nhá bạn

Đền thờ mẫu Thượng Ngàn vừa được xây dựng xong tại đỉnh núi
Bên tam quan mới xây dựng sau lưng đức Di Lặc
Cột mốc đánh dấu độ cao của Bà Nà
Làng Pháp nhìn từ đỉnh núi
Do lúc đi Bà Nà, máy chụp hình hết pin, đt thì lo đánh dấu location báo về liên tục nên cũng không còn nhiêu pin. Đây là điểm mà em chụp ít hình nhất, không diễn tả được cái đẹp của Bà Nà
Tuy nhiên với cái giá 400k/người ngoại tỉnh đế Bà Nà thì em hứa là khi nào xong khu làng Pháp em mới lên xem lại có gì hay không chứ em không đốt tiền cho vụ cáp treo này nữa đâu.
Dự tính của em cho ngày hôm sau đó là vào Huế vui chơi 1 ngày 1 đêm rồi bay về, nhưng do lời dụ dỗ về động Thiên Đường (mình nhẹ dạ cả tin toàn nghe dụ dỗ, nhất gái dụ dỗ
) em quyết định tiến về Quảng Bình. Việc đầu tiên là đi mua đôi guốc khác thay cho đôi giày leo núi đã trải qua 1 trận mưa lớn, 2 bận leo núi cật lực nên có một mùi hương khó tả
Em vào trung tâm thương mại lớn nhất Đà Nẵng và sau 1h lượn lờ em mua được đôi này

Bên tam quan mới xây dựng sau lưng đức Di Lặc

Cột mốc đánh dấu độ cao của Bà Nà

Làng Pháp nhìn từ đỉnh núi


Do lúc đi Bà Nà, máy chụp hình hết pin, đt thì lo đánh dấu location báo về liên tục nên cũng không còn nhiêu pin. Đây là điểm mà em chụp ít hình nhất, không diễn tả được cái đẹp của Bà Nà

Tuy nhiên với cái giá 400k/người ngoại tỉnh đế Bà Nà thì em hứa là khi nào xong khu làng Pháp em mới lên xem lại có gì hay không chứ em không đốt tiền cho vụ cáp treo này nữa đâu.

Dự tính của em cho ngày hôm sau đó là vào Huế vui chơi 1 ngày 1 đêm rồi bay về, nhưng do lời dụ dỗ về động Thiên Đường (mình nhẹ dạ cả tin toàn nghe dụ dỗ, nhất gái dụ dỗ




Em vào trung tâm thương mại lớn nhất Đà Nẵng và sau 1h lượn lờ em mua được đôi này


Chia tay thành phố Đà Nẵng em tiến về Quảng Bình, trên hành trình xuyên màn đêm
Em di chuyển qua hầm Hải Vân, do ngồi băng ghế cuối nên em đành lại phải dùng ảnh tư liệu minh họa vậy
Qua khỏi cửa hầm phía Huế, đập vào mắt đầu tiên đó chính là vịnh Lăng Cô, một trong những vịnh đẹp nhất của Việt Nam

Em di chuyển qua hầm Hải Vân, do ngồi băng ghế cuối nên em đành lại phải dùng ảnh tư liệu minh họa vậy




Qua khỏi cửa hầm phía Huế, đập vào mắt đầu tiên đó chính là vịnh Lăng Cô, một trong những vịnh đẹp nhất của Việt Nam


Trên đường đi, em dừng chân nghỉ ngơi tại 1 quán cơm ở phá Tam Giang. Và sau đây là đôi nét về phá Tam Giang:
Phá cũng cùng nghĩa với đầm, và là đầm ra cửa biển giao giữa ba con sông nên gọi là Phá Tam Giang. Phá Tam Giang là một thủy lộ chính để lên kinh thành Huế ngày xưa nên ai thượng kinh đều phải vượt phá. Tuy là đầm nhưng vì có sóng nên ca dao có câu:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ*, sợ phá Tam Giang…
Xưa kia vùng đất được gọi là Truông Nhà Hồ vốn là một vùng đất rộng bạt ngàn, cây cối um tùm, là sào huyệt của một băng cướp rất nguy hiểm, ai đi qua đó cũng thường bị chúng bắt bớ, giết chóc để cướp của đòi tiền mãi lộ. Được lệnh Chúa Nguyễn, quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng vào đánh dẹp thành công (chắc hẳn không ít người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện thuở cắp sách đến trường, vị quan cho quân nấp vào các rương đồ, giả dạng thương nhân qua truông bị cướp rồi vứt lại rương. Bọn cướp sau khi cướp được hí hửng mở rương tính chia của thì bị quan binh phục kích trong rương lao ra chém giết. Đó chính là quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, cũng là một tấm gương hiếu học xưa) . Từ đó truông nhà Hồ trở nên yên bình.
Phá Tam Giang ngày nay đã cạn
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm
Ngày nay, đến với phá Tam Giang ta chỉ thấy 1 cảnh yên bình. Trong tiếng gió xạc xào, thật sự nếu có điều kiện em sẽ ngủ lại phá tam giang ngắm cảnh hoàng hôn trên phá. Thêm 1 thông tin em cập nhật từ mợ Sie thì ở vùng nước rộng 52 km2 này có một loại cua rất ngon, các bác nên tìm thử
Sẽ là thiếu sót lớn nếu tới nơi đây mà không nếm thử món canh cá nấu ngót vùng biển miền trung. Hôm em ghé qua em chỉ kịp chụp lại món cá dìa, còn các món khác do quá đói nên tới hồi nhớ ra thì chỉ còn bộ xương cách trí
Một ngôi miếu ngay sát quán ăn. Các bác nào muốn tìm quán ăn trên đoạn đường này nên vào quán này. Quán không tên, khi có khách mới nấu và đồ ăn thì tươi. Đặc điểm tìm kiếm là ngôi miếu này, phía trước là ngôi nhà bình thường, phía sau nhà mới là khu vực bán ăn
Phá cũng cùng nghĩa với đầm, và là đầm ra cửa biển giao giữa ba con sông nên gọi là Phá Tam Giang. Phá Tam Giang là một thủy lộ chính để lên kinh thành Huế ngày xưa nên ai thượng kinh đều phải vượt phá. Tuy là đầm nhưng vì có sóng nên ca dao có câu:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ*, sợ phá Tam Giang…
Xưa kia vùng đất được gọi là Truông Nhà Hồ vốn là một vùng đất rộng bạt ngàn, cây cối um tùm, là sào huyệt của một băng cướp rất nguy hiểm, ai đi qua đó cũng thường bị chúng bắt bớ, giết chóc để cướp của đòi tiền mãi lộ. Được lệnh Chúa Nguyễn, quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng vào đánh dẹp thành công (chắc hẳn không ít người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện thuở cắp sách đến trường, vị quan cho quân nấp vào các rương đồ, giả dạng thương nhân qua truông bị cướp rồi vứt lại rương. Bọn cướp sau khi cướp được hí hửng mở rương tính chia của thì bị quan binh phục kích trong rương lao ra chém giết. Đó chính là quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, cũng là một tấm gương hiếu học xưa) . Từ đó truông nhà Hồ trở nên yên bình.
Phá Tam Giang ngày nay đã cạn
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm

Ngày nay, đến với phá Tam Giang ta chỉ thấy 1 cảnh yên bình. Trong tiếng gió xạc xào, thật sự nếu có điều kiện em sẽ ngủ lại phá tam giang ngắm cảnh hoàng hôn trên phá. Thêm 1 thông tin em cập nhật từ mợ Sie thì ở vùng nước rộng 52 km2 này có một loại cua rất ngon, các bác nên tìm thử







Sẽ là thiếu sót lớn nếu tới nơi đây mà không nếm thử món canh cá nấu ngót vùng biển miền trung. Hôm em ghé qua em chỉ kịp chụp lại món cá dìa, còn các món khác do quá đói nên tới hồi nhớ ra thì chỉ còn bộ xương cách trí




Một ngôi miếu ngay sát quán ăn. Các bác nào muốn tìm quán ăn trên đoạn đường này nên vào quán này. Quán không tên, khi có khách mới nấu và đồ ăn thì tươi. Đặc điểm tìm kiếm là ngôi miếu này, phía trước là ngôi nhà bình thường, phía sau nhà mới là khu vực bán ăn


Trên đường đi, em chỉ đi ngang qua thành phố Huế.
Theo như cảm nhận của em thì Huế và Đà Nẵng là nơi nên đến và cảm nhận sự khác biệt với miền nam.
Ấn tượng của em đối với Huế rất nhiều, nhất là khi chuyến đi trước em tới Huế trong mùa mưa, Huế đẹp và rất buồn. Vì vậy em xin mạn phép viết về Huế qua ký ức của em, đồng thời nếu các bác nào chưa tới cũng phần nào cảm nhận được vẻ đẹp của Huế
Nhắc đến Huế là nhắc đến những cung điện, đền đài rêu phong cũ; là những người con gái Huế diệu dàng đã đi vào thơ văn. Những nàng "..lá trúc che ngang mặt chữ điền..", những bóng áo tím thướt tha trường Đồng Khánh...; những chiều dạo phố trên chiếc xích lô ngắm phố phường; những cơn mưa ra rích không biết bao giờ dứt khiến nơi đây thường gắn với chữ 'buồn"; và trên hết là những món ăn rất đặc trưng nơi đây mà ai đã một lần trong đời đều đã từng nếm qua: bún bò huế, cơm hến, bánh lọc, nậm, các loại chè...Trong bài viết này, do tư liệu không đủ để minh họa, em chỉ xin giới thiệu với các bác về một vài công trình tiêu biểu của Huế em đã có dịp đi
Điểm đầu tiên đó là đàn Nam Giao nằm trên cung đường đi viếng lăng Minh Mạng, Tự Đức, là nơi các vua chúa nhà Nguyễn xưa thường đến để bái tế trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Đồng thời đây cũng là nơi các nam thanh nữ tú ở Huế hay ra tâm sự

Theo như cảm nhận của em thì Huế và Đà Nẵng là nơi nên đến và cảm nhận sự khác biệt với miền nam.
Ấn tượng của em đối với Huế rất nhiều, nhất là khi chuyến đi trước em tới Huế trong mùa mưa, Huế đẹp và rất buồn. Vì vậy em xin mạn phép viết về Huế qua ký ức của em, đồng thời nếu các bác nào chưa tới cũng phần nào cảm nhận được vẻ đẹp của Huế

Nhắc đến Huế là nhắc đến những cung điện, đền đài rêu phong cũ; là những người con gái Huế diệu dàng đã đi vào thơ văn. Những nàng "..lá trúc che ngang mặt chữ điền..", những bóng áo tím thướt tha trường Đồng Khánh...; những chiều dạo phố trên chiếc xích lô ngắm phố phường; những cơn mưa ra rích không biết bao giờ dứt khiến nơi đây thường gắn với chữ 'buồn"; và trên hết là những món ăn rất đặc trưng nơi đây mà ai đã một lần trong đời đều đã từng nếm qua: bún bò huế, cơm hến, bánh lọc, nậm, các loại chè...Trong bài viết này, do tư liệu không đủ để minh họa, em chỉ xin giới thiệu với các bác về một vài công trình tiêu biểu của Huế em đã có dịp đi

Điểm đầu tiên đó là đàn Nam Giao nằm trên cung đường đi viếng lăng Minh Mạng, Tự Đức, là nơi các vua chúa nhà Nguyễn xưa thường đến để bái tế trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Đồng thời đây cũng là nơi các nam thanh nữ tú ở Huế hay ra tâm sự


Điểm đến thứ 2 cũng thu hút rất đông du khách tham quan đó là lăng Tự Đức. Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.
Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn, là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.
Tương truyền, dân chúng ta thán:
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân
Ngày 8-9 âm lịch năm Bính Dần (1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm võ khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại. Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.
Tuy nhiên, do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.
Một trong những nơi mà em thích nhất trong lăng Tự Đức chính là hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông. Trong một buổi chiều mưa rả rích, khung cảnh của lăng càng thêm buồn bã, khiến em cảm nhận được tại sao khi nhắc đến Huế thường phải nhắc đến mưa và nỗi buồn "Tôi buồn không rõ vì sao tôi buồn"...
Hàng sứ trơ gan cùng tuế nguyệt trong Khiêm Lăng
Chí Khiêm đường nơi thờ các bà vợ vua
Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn, là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.
Tương truyền, dân chúng ta thán:
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân
Ngày 8-9 âm lịch năm Bính Dần (1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm võ khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại. Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.
Tuy nhiên, do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.
Một trong những nơi mà em thích nhất trong lăng Tự Đức chính là hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông. Trong một buổi chiều mưa rả rích, khung cảnh của lăng càng thêm buồn bã, khiến em cảm nhận được tại sao khi nhắc đến Huế thường phải nhắc đến mưa và nỗi buồn "Tôi buồn không rõ vì sao tôi buồn"...





Hàng sứ trơ gan cùng tuế nguyệt trong Khiêm Lăng

Chí Khiêm đường nơi thờ các bà vợ vua
