He he... khán giả ngồi coi không hối, mà có 2 cha thổ dân Washington lại hối quá trời là sao ta? Chắc là khoái nghe người ta khen nhà mình 
Từ giã Portland để đi Seattle, chúng tôi không theo xa lộ I-5 mà lại cố ý quẹo ra phía bờ biển, vì muốn đi thử Route 101 hay còn gọi là Pacific Coast Highway, một trong những tuyến đường ven biển đẹp nhất thế giới. Đây là cây cấu Astoria bắc qua eo biển, nối hai tiểu bang Oregon và Washington.




PMC nói:He he... khán giả ngồi coi không hối, mà có 2 cha thổ dân Washington lại hối quá trời là sao ta? Chắc là khoái nghe người ta khen nhà mình![]()
Ừ ráng thức để post cho xong đi nha!
Seattle
Seattle nằm ở cực tây-bắc của Hoa Kỳ, là thành phố lớn nhất tiểu bang Washington và cũng là lớn nhất khu bờ Tây-Bắc Thái Bình Dương. Trước khi thuyền trưởng George Vancouver là người phương tây đầu tiên khám phá ra Seattle vào tháng 5 năm 1792, nơi đây đã có dấu tích sinh sống của các thổ dân từ 4.000 năm trước. Giữa thế kỷ 19, Arthur Denny đã dẫn đầu một nhóm người đến đây và ông được coi là thường trú dân đầu tiên có gốc gác Châu Âu.
Thành phố được đặt theo tên của một tù trưởng mang tên Sealth “Seattle”, thủ lĩnh của hai bộ lạc thổ dân Duwamish và Suquamish. Ban đầu Seattle có biệt danh là “Thành phố Nữ hoàng” (Queen City), nhưng từ năm 1982 đến nay thì mang nickname chính thức là “Thành phố Ngọc Lục Bảo” (Emerald City), ý muốn nói màu xanh biếc của những rừng thông bạt ngàn tại nơi này. Ngoài ra người ta cũng thường gọi nó là “Cửa ngõ đến Alaska”, “Thành phố mưa” hay “Thành phố phản lực cơ”, ý ám chỉ quê hương của hãng máy bay Boeing. Riêng tôi thì thích biệt danh “Xứ Mưa” mà người Việt tại Seattle hay dùng.
Cũng như những thành phố khác, Seattle có một lịch sử phát triển đầy những thăng trầm. Trong giai đoạn mới thành lập, Seattle còn được gọi là “thành phố gỗ” vì sự hoạt động nhộn nhịp của ngành công nghiệp này. Sau đó là thời kỳ toàn dân đổ xô đi tìm vàng tại vùng Alaska và Yukon của Canada, mà lịch sử ghi là Klondike Gold Rush hay Yukon Gold Rush. Được sánh như phong trào tìm vàng California Gold Rush vào giữa thế kỷ 19 mà đã hình thành nên thành phố San Francisco và bang California, Klondike Gold Rush diễn ra và cuối thế kỷ 19 với một quy mô rất lớn, và cũng là bối cảnh cho tác phẩm Tiếng Gọi Nơi Hoang Dã của văn hào Jack London. Toàn dân Seattle ăn theo nhờ vào cung cấp quần áo và lương thực, chủ yếu là cá hồi, cho từng đoàn người rồng rắn tiến về phía Bắc Cực. Sự trù phú của thành phố kéo dài sang đến đầu thế kỷ 20, với những công ty nổi tiếng được ra đời vào thời đó như Nordstrom và Eddie Bauer chuyên về quần áo, còn cậu bé 19 tuổi James Casey đã mượn bạn mình 100USD để mở công ty American Messenger Company mà nay là UPS.
Đến Đệ Nhất Thế Chiến thì Seattle lại ăn theo nhờ ngành đóng tàu, và sau đó bắt đầu rơi vào những cơn khủng hoảng kinh tế vì đình công, thất nghiệp,... Trong giai đoạn Đệ Nhị Thế Chiến, Seattle lại trồi lên lại nhờ ngành chế tạo máy bay phục vụ chiến tranh, chủ yếu là của hãng Boeing.
Nếu có một khu vực nào đó tại Hoa Kỳ có thể đối chọi với vùng vịnh Bay Area tại San Francisco về lãnh vực công nghệ cao, thì đó chỉ có thể là Seattle. Bắt đầu từ lúc hãng Microsoft "dọn nhà" từ Albuquerque, bang New Mexico đến Bellevue (nằm phía đông Seattle) vào năm 1979, hàng loạt các công ty công nghệ cao khác đã tề tựu về đây. Amazon.com, RealNetworks, McCaw Cellular (hiện thuộc AT&T), VoiceStream (sau đổi thành T-Mobile),... là những cái tên mà ai nghe cũng biết. Ngoài ra còn có Nintendo Bắc Mỹ cũng đặt trụ sở chính tại thành phố này.

Seattle nằm ở cực tây-bắc của Hoa Kỳ, là thành phố lớn nhất tiểu bang Washington và cũng là lớn nhất khu bờ Tây-Bắc Thái Bình Dương. Trước khi thuyền trưởng George Vancouver là người phương tây đầu tiên khám phá ra Seattle vào tháng 5 năm 1792, nơi đây đã có dấu tích sinh sống của các thổ dân từ 4.000 năm trước. Giữa thế kỷ 19, Arthur Denny đã dẫn đầu một nhóm người đến đây và ông được coi là thường trú dân đầu tiên có gốc gác Châu Âu.

Thành phố được đặt theo tên của một tù trưởng mang tên Sealth “Seattle”, thủ lĩnh của hai bộ lạc thổ dân Duwamish và Suquamish. Ban đầu Seattle có biệt danh là “Thành phố Nữ hoàng” (Queen City), nhưng từ năm 1982 đến nay thì mang nickname chính thức là “Thành phố Ngọc Lục Bảo” (Emerald City), ý muốn nói màu xanh biếc của những rừng thông bạt ngàn tại nơi này. Ngoài ra người ta cũng thường gọi nó là “Cửa ngõ đến Alaska”, “Thành phố mưa” hay “Thành phố phản lực cơ”, ý ám chỉ quê hương của hãng máy bay Boeing. Riêng tôi thì thích biệt danh “Xứ Mưa” mà người Việt tại Seattle hay dùng.

Cũng như những thành phố khác, Seattle có một lịch sử phát triển đầy những thăng trầm. Trong giai đoạn mới thành lập, Seattle còn được gọi là “thành phố gỗ” vì sự hoạt động nhộn nhịp của ngành công nghiệp này. Sau đó là thời kỳ toàn dân đổ xô đi tìm vàng tại vùng Alaska và Yukon của Canada, mà lịch sử ghi là Klondike Gold Rush hay Yukon Gold Rush. Được sánh như phong trào tìm vàng California Gold Rush vào giữa thế kỷ 19 mà đã hình thành nên thành phố San Francisco và bang California, Klondike Gold Rush diễn ra và cuối thế kỷ 19 với một quy mô rất lớn, và cũng là bối cảnh cho tác phẩm Tiếng Gọi Nơi Hoang Dã của văn hào Jack London. Toàn dân Seattle ăn theo nhờ vào cung cấp quần áo và lương thực, chủ yếu là cá hồi, cho từng đoàn người rồng rắn tiến về phía Bắc Cực. Sự trù phú của thành phố kéo dài sang đến đầu thế kỷ 20, với những công ty nổi tiếng được ra đời vào thời đó như Nordstrom và Eddie Bauer chuyên về quần áo, còn cậu bé 19 tuổi James Casey đã mượn bạn mình 100USD để mở công ty American Messenger Company mà nay là UPS.

Đến Đệ Nhất Thế Chiến thì Seattle lại ăn theo nhờ ngành đóng tàu, và sau đó bắt đầu rơi vào những cơn khủng hoảng kinh tế vì đình công, thất nghiệp,... Trong giai đoạn Đệ Nhị Thế Chiến, Seattle lại trồi lên lại nhờ ngành chế tạo máy bay phục vụ chiến tranh, chủ yếu là của hãng Boeing.

Nếu có một khu vực nào đó tại Hoa Kỳ có thể đối chọi với vùng vịnh Bay Area tại San Francisco về lãnh vực công nghệ cao, thì đó chỉ có thể là Seattle. Bắt đầu từ lúc hãng Microsoft "dọn nhà" từ Albuquerque, bang New Mexico đến Bellevue (nằm phía đông Seattle) vào năm 1979, hàng loạt các công ty công nghệ cao khác đã tề tựu về đây. Amazon.com, RealNetworks, McCaw Cellular (hiện thuộc AT&T), VoiceStream (sau đổi thành T-Mobile),... là những cái tên mà ai nghe cũng biết. Ngoài ra còn có Nintendo Bắc Mỹ cũng đặt trụ sở chính tại thành phố này.

Museum of Flight - Bảo tàng Hàng Không
Với bộ sưu tập máy bay lớn nhất thế giới và nhiều thiết bị không gian khác, Bảo tàng Hàng Không tại Seattle tiếp đón đến 400.000 lượt khách tham quan, cộng với 140.000 sinh viên tham gia các chương trình ngoại khóa hàng năm.
Ý tưởng thành lập nhà bảo tàng bắt nguồn từ dự án phục chế chiếc máy bay Boeing B-80A của Hội Lịch Sử Hàng Không Tây Bắc Thái Bình Dương. B-80 được hãng hàng không Boeing Air Transport (cũng do William Boeing lập ra) sử dụng trên đường bay nối liền San Francisco và Chicago từ năm 1928 cho tới 1934 thì được thay thế bởi chiếc B-247. Riêng chiếc B-80A này bị bỏ hoang tại Alaska, là phiên bản đời cuối, khoang hành khách được mở rộng lên tới 18 ghế so với Model 80 chỉ có 12 khách, và là chiếc duy nhất còn sót lại. Sau thời gian phục chế 16 năm, chiếc B-80A được đặt ngay trung tâm của tòa sảnh lớn nhất trong bảo tàng.
Vào năm 1930, Boeing Air Transport, sau này là United Airlines, là hãng đầu tiên trên thế giới đưa nữ tiếp viên lên phục vụ hành khách. Lúc đó các tiếp viên được tuyển chọn từ các cô y tá chưa chồng, vì nhiệm vụ chính là trấn an nỗi sợ hãi của hành khách khi ngồi trên máy bay. Chuyện như đùa nhưng hồi đó là thật

Với bộ sưu tập máy bay lớn nhất thế giới và nhiều thiết bị không gian khác, Bảo tàng Hàng Không tại Seattle tiếp đón đến 400.000 lượt khách tham quan, cộng với 140.000 sinh viên tham gia các chương trình ngoại khóa hàng năm.
Ý tưởng thành lập nhà bảo tàng bắt nguồn từ dự án phục chế chiếc máy bay Boeing B-80A của Hội Lịch Sử Hàng Không Tây Bắc Thái Bình Dương. B-80 được hãng hàng không Boeing Air Transport (cũng do William Boeing lập ra) sử dụng trên đường bay nối liền San Francisco và Chicago từ năm 1928 cho tới 1934 thì được thay thế bởi chiếc B-247. Riêng chiếc B-80A này bị bỏ hoang tại Alaska, là phiên bản đời cuối, khoang hành khách được mở rộng lên tới 18 ghế so với Model 80 chỉ có 12 khách, và là chiếc duy nhất còn sót lại. Sau thời gian phục chế 16 năm, chiếc B-80A được đặt ngay trung tâm của tòa sảnh lớn nhất trong bảo tàng.


Vào năm 1930, Boeing Air Transport, sau này là United Airlines, là hãng đầu tiên trên thế giới đưa nữ tiếp viên lên phục vụ hành khách. Lúc đó các tiếp viên được tuyển chọn từ các cô y tá chưa chồng, vì nhiệm vụ chính là trấn an nỗi sợ hãi của hành khách khi ngồi trên máy bay. Chuyện như đùa nhưng hồi đó là thật
Tòa nhà gỗ màu đỏ có tên gọi là Boeing Red Barn là xưởng đầu tiên của Boeing được xây dựng vào năm 1909. Trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến thì tòa nhà bị bỏ hoang, và người ta đã kéo nó vượt quãng đường 3 cây số về đặt trong khuôn viên bảo tàng, trùng tu ròng rã đến 8 năm mới hoàn tất.
Các thợ làm máy bay hồi đó là thợ... mộc, vì các bộ phận máy bay hầu hết là gỗ.


Các thợ làm máy bay hồi đó là thợ... mộc, vì các bộ phận máy bay hầu hết là gỗ.



Kết cấu của tòa sảnh chính được xây chắc chắn để treo được hơn 20 chiếc máy bay, trong đó có chiếc Douglas DC-3 nặng hơn 9 tấn.




Mẹ bồng con: chiếc Lockheed M-21 dùng để cõng chiếc không người lái D-21. Khi lên trên trời thì chiếc D-21 được thả ra với nhiệm vụ thám không và chụp ảnh mặt đất.



Chuyên cơ Tổng thống Air Force One, Boeing VC-137B loại gắn động cơ phản lực đầu tiên. Tên của các đời Tổng thống đã từng sử dụng và các phi vụ quan trọng mà nó đã thực hiện, trong đó có cả một giai đoạn trong chiến tranh Việt Nam.




Concord
Năm 1976 có một sự kiện rúng động ngành hàng không dân dụng. Bình thường người ta phải bay 8 tiếng đồng hồ để vượt Đại Tậy Dương, nhưng con chim sắt siêu thanh này chỉ tốn chưa đầy phân nửa khoảng thời gian đó. Chỉ cần 3 tiếng rưỡi cho hành trình Paris-NewYork.
Năm 1976 có một sự kiện rúng động ngành hàng không dân dụng. Bình thường người ta phải bay 8 tiếng đồng hồ để vượt Đại Tậy Dương, nhưng con chim sắt siêu thanh này chỉ tốn chưa đầy phân nửa khoảng thời gian đó. Chỉ cần 3 tiếng rưỡi cho hành trình Paris-NewYork.


