RE: HIMALAYSA, HÀNH TRÌNH TỪ ĐÔNG SANG TÂY
Cuộc sống trên “nóc nhà thế giới”
Những túp lều du mục bên hồ Namtso - Ảnh: Binh Nguyên
TT - Những người sống trên “nóc nhà thế giới” đã tồn tại như thế nào giữa những đỉnh núi cao hàng ngàn mét bao quanh, nhiệt độ mùa đông xuống đến âm 40-500C?
>> Kỳ 2: Pháo đài tâm linh
>> Kỳ 1: Vũ điệu trong mây
>> Video clip
Vượt lên đời sống băng giá khắc nghiệt, họ vẫn luôn khao khát một cuộc hành hương khổ hạnh nhất thế giới trong cuộc đời.
Khi mùa đông đến sớm
Để chống lại sự khắc nghiệt của độ cao trên “nóc nhà thế giới”, chúng tôi đều mang theo những bình ôxy cá nhân để làm một việc tưởng chừng như quá đỗi bình thường đối với con người: thở! Không khí ở độ cao 4.000 - 5.000m quá loãng khiến nhịp thở thường bị rối loạn và dẫn đến thiếu ôxy trầm trọng trong cơ thể, thậm chí nếu không hạ độ cao kịp thời có thể dẫn đến hôn mê và tử vong.
Hôm chúng tôi chinh phục đỉnh La Ken La cao 5.190m, nhiều người đã hụt hơi, tim đập loạn xạ, không thể tự chủ từng cử động của mình. Sau khi thực hiện chuyến khảo sát hồ Namtso - hồ nước mặn duy nhất trên thế giới ở độ cao 4.720m - đã có người bất tỉnh vì thiếu ôxy.
Làm sao những người trên đỉnh núi cao nhất thế giới này có thể tồn tại hàng ngàn năm từ cái thuở chưa hề có thiết bị thở, bình ôxy? Cô phiên dịch Weixi cho biết người Tây Tạng từ ngàn xưa đã tập kiểm soát hơi thở của mình bằng phương pháp thiền của các du già pranayama - những độc cư ẩn sĩ trên những ngọn núi cao mà không ai có thể lên tới được.
Họ đã sáng tạo phương pháp thiền để có thể tồn tại qua hàng chục mùa đông băng giá trong điều kiện ăn uống khắc khổ nhất. Chúng tôi cũng thử tập, hít thở thật sâu, nhưng càng hít sâu càng thấy kiệt sức mau hơn bởi càng hít sâu khối lượng không khí vào phổi, tim gấp hai ba lần làm cho tim phải làm việc nhiều hơn dẫn đến mất sức.
Bây giờ đang là mùa thu, nhiệt độ chưa khắc nghiệt lắm, nhưng những ngọn gió núi vẫn như cắt vào da thịt, mỗi lần cởi găng tay ra để chụp ảnh là một cực hình vì gió rét. Chúng tôi ghé vào tránh gió và ăn trưa trong một túp lều của người Tạng bên hồ Namtso.
Chủ nhân túp lều là một phụ nữ trẻ với đàn con nhỏ mà mặt đứa bé nào cũng sưng tấy do nắng, gió và giá rét. Người mẹ trẻ Tsedendorkaj thở dài và chỉ ra dãy núi bên kia hồ: “Mùa đông năm nay có lẽ đến sớm, bây giờ đang là mùa thu mà đỉnh của ngọn Nyianchen Tangu (cao 6.000m) đã phủ đầy tuyết trắng, một năm vất vả lại đến rồi đấy!”.
Không chỉ chị Tsedendorkaj và những người sống ven hồ Namtso mới lo lắng, mà hầu hết những người sống du mục trên Himalaya đều có chung tâm trạng, bởi quanh năm họ chỉ có khoảng ba tháng làm lụng, sinh kế khi tuyết tan để tích lũy cho chín tháng băng giá khắc nghiệt.
Chị Tsedendorkaj không có tài sản gì ngoài túp lều du mục và đàn trâu yak bên hồ để bán sữa trâu yak, trà bơ, những chiếc bánh nướng khô khốc kiểu Tạng cho lữ khách ghé thăm hồ Namtso. Để tồn tại được qua mùa đông kéo dài, chị phải cố dành dụm cho được 2.000 tệ trong những tháng này, mùa đông đến nhanh nguy cơ đói kém càng cao.
Những đứa trẻ cứ đứng nhìn du khách phương xa ăn trứng, trái cây mang theo không chớp mắt. Chúng tôi ai cũng im lặng nhường khẩu phần của mình cho chúng...
Đoàn người "tam bộ nhất bái" của Tintu Sampe đi từ Chawola về Lhasa đã hơn bốn tháng - Ảnh: Trần Xuân Hùng
Con đường khổ hạnh
Trên đường từ đỉnh La Ken La trở về, trong làn mưa rơi, chúng tôi không tin vào mắt mình khi phía trước mặt là những đoàn người đang hành hương về thánh địa đền Jokhang - một trong những ngôi đền linh thiêng nhất Tây Tạng - với nghi thức “tam bộ nhất bái” (đi ba bước, bái một lạy), một nghi thức tôn giáo dành cho những người hành hương được xem là khổ hạnh nhất thế giới.
Quần áo của họ rách bươm cho dù mũi giày, đầu gối, cánh tay và phần ngực đều được những miếng da trâu dày che chắn rất cẩn thận để chống xây xát khi thực hiện động tác “nhất bái” bằng cách xoài cả người về phía trước trên con đường sỏi đá.
Khi chúng tôi đến hỏi thăm và tặng ít tiền, trái cây cho một đoàn “tam bộ nhất bái” trẻ tuổi, anh Tintu Sampe - 25 tuổi, quê ở tận Chawola hẻo lánh ở miền đông bắc Tây Tạng xa xôi - cho biết nhóm anh có bốn người, đều là những nông dân mộ đạo.
Đối với những người theo Lạt Ma giáo khắp Tây Tạng, một lần trong đời người đều hành hương theo nghi thức “tam bộ nhất bái” về thánh địa Jokhang. Họ đã chuẩn bị chi phí, sức khỏe cho chuyến hành hương này từ nhiều năm qua.
Những chuyến đi về đến Jokhang là niềm vinh dự lớn lao không chỉ của bản thân, mà còn của gia đình, làng mạc của họ. Tintu và nhóm hành hương không hề biết khoảng cách từ Chawola đến Jokhang là mấy trăm cây số, đã bao nhiêu lần thay các tấm da bảo vệ đôi chân, đôi tay và ngực, nhưng họ đã đi ròng rã như thế được hơn bốn tháng trời và hi vọng khoảng một tháng nữa sẽ đến được thánh địa Jokhang!
Thân thể của những người trong đoàn “tam bộ nhất bái” của Tintu đầy thương tích, lộ phí mang theo đã cạn, họ sống qua ngày bằng cách khất thực ven đường. Nhưng họ vẫn vui và cười rất tươi khi chúng tôi chụp ảnh, vì theo Tintu, không phải ai cũng đủ điều kiện và sức khỏe để thực hiện chuyến hành hương khổ hạnh của cả đời người này.
Tôi được nghe câu chuyện xúc động về một gia đình ở vùng Yatung, giáp biên giới với Sikim (miền nam Tây Tạng). Người cha đã bán hết đàn gia súc để thực hiện ước nguyện hành hương “tam bộ nhất bái” về thánh địa xa xôi, nhưng ông đã kiệt sức và chết mất xác trên con đường núi cô quạnh.
Chờ mãi không thấy cha trở về, người con khi lớn lên lại quyết tâm thực hiện ước nguyện của cha. Lên đường “tam bộ nhất bái” qua bao đỉnh núi cao, qua bao thung lũng sâu của rặng Himalaya hùng vĩ để về đến được Jokhang và dâng lên bàn thờ Phật lời khấn cầu hoàn thành sứ mạng đức tin thay người cha đã khuất.
Hai đời người cho một cuộc hành hương khổ hạnh, nhưng họ vẫn mãn nguyện. Vì với họ, cuộc đời là miên viễn cứ xoay vòng như bánh xe mani của vòng quay chuyển pháp luân. Trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, chuyến hành hương khổ hạnh “tam bộ nhất bái” được xem là dài nhất, gian khổ nhất được ghi nhận là của thánh tăng Hư Vân (mất năm 1959), ông đã đi suốt ba năm trời trong tuyết trắng và vượt qua chặng đường dài đến 2.500 km!
Đêm trời lại mưa, cả một ngày mệt mỏi sau những chặng đường dài giá rét, vậy mà tôi không thể chợp mắt được. Tôi cứ nghĩ mãi về hình ảnh của Tintu và đoàn người hành hương “tam bộ nhất bái”. Họ đang làm gì giữa trời đất băng giá kia, con đường hành hương của họ có đến được Jokhang trước một kiếp người?...
BINH NGUYÊN
Đàn trâu yak - "cứu tinh" của người Tây Tạng giữa vùng băng tuyết - Ảnh: Binh Nguyên
Trên những chặng đường Himalaya, chúng tôi luôn thấy những túp lều cô quạnh trên các đỉnh núi cao chót vót của người Tây Tạng du mục. Cuộc sống của họ luôn gắn chặt với đàn trâu yak - đó là một trong những nguồn nuôi sống và là “cứu tinh” của đời sống du mục từ ngàn đời nay.
Ngay trung tâm thủ phủ Lhasa, trên các vật phẩm lưu niệm, biểu tượng trong khắp đời sống người Tây Tạng, hình ảnh trâu yak luôn ở vị trí số một. Nhiều người Tạng nói rằng không biết số phận của họ sẽ đi về đâu nếu không có đàn trâu yak.
Họ uống sữa trâu, ăn thịt trâu. Mỡ trâu cũng được chế biến thành một loại bơ đặc biệt, vừa là thực phẩm chống lại cái lạnh, vừa là nhiên liệu để thắp sáng trong đêm đông. Bộ da và lông là thứ không thể thiếu với họ để làm giày, quần áo chống lại cái lạnh mùa đông âm 40-500C.
oOo
Người ta gọi Everest là cực thứ ba của Trái đất, ngoài Bắc cực và Nam cực, bởi độ cao tuyệt đối của đỉnh núi. Một con đường “hành hương” gian nan không kém của những người dũng cảm đến từ khắp thế giới. Nhưng Everest lại chính là sự bất công của tạo hóa...
Kỳ tới: Everest - cực thứ ba của Trái đất