Re:Thớt "Miệt vườn" của em đã mất
Bánh ít hồn quê
Những hình ảnh thân quen này giờ không phải dễ tìm. Chiếc bánh ít quê nghèo thơm ngon không phải đứa trẻ nào cũng biết, nhất là trẻ con ở thị thành. Ở nông thôn bây giờ, ngày giỗ, ngày tết cũng ít làm bánh hơn vì đã có bánh tây thay dần những chiếc bánh quê!
Nhớ ngày trước, dịp mùng 5 tháng 5 âm lịch, hay nhà có đám giỗ thì cũng gói vài chục, có khi vài trăm cái bánh ít để đãi khách và cho con cháu có cái bánh mà ăn. Khi chuẩn bị làm bánh, trước đó một ngày, người ta tìm cắt những tàu lá chuối còn nguyện vẹn. Phơi tàu lá chuối cho heo héo rồi mới rọc ra để lá chuối không bị rách rời.
Nếu lúc gặp trời mưa dầm, không có nắng để phơi cho lá thêm dai thì người ta trụn vào nước sôi sơ qua rồi mới gói bánh. Nhưng làm như thế là để “chữa cháy” thôi vì khi gói và hấp chín mình bánh nhìn không đẹp mắt. Bánh ít, có hai loại nhưn: nhưn đậu xanh và nhưn dừa. Mà lạ thật, khi nói làm bánh ít thì thường người ta làm cả 2 loại nhưn chứ ít khi chỉ làm một loại.
Ngoài xay bột, giằn bột cho ráo, người ta còn xay đậu xanh cho giập làm đôi, ngâm nước để tách vỏ trước khi luộc cho chín mềm và khô đặt lại đến khi vò viên không dính tay. Lá gói bánh ít được thoa một ít mở hay dầu ăn để khi bóc bánh ra vừa đẹp, vừa không bị dính vào lá.
Trong khi những người phụ nữ chuẩn bị mọi thứ trước khi gói bánh thì cánh đàn ông, trai tráng cũng có việc để phụ giúp. Làm bánh ít nhưn dừa chỉ dùng cơm của trái dừa mới rám vỏ vì cơm còn hơi mềm để khi sên nhưn đến ráo vẫn không dậy mùi dầu dừa. Những ai từng ở quê chắc hẵn khó quên cái bầu không khí đầm ấm, vui vẻ của mọi người trong gia đình, kể cả bà con thân cận trong xóm đến giúp. Đó là cái nếp sinh hoạt ở quê đáng quý, đáng yêu biết nhường nào! Vừa làm vừa chuyện trò, vừa nhắc nhớ về những kỷ niệm đã qua. Đối với trẻ con trong lúc chờ bánh chín còn được nghe bà kể chuyện xưa, tích cũ về tên gọi của loại bánh dân dã này!
Chuyện xưa kể rằng, khi chàng Lang Liêu - con trai của Vua Hùng thứ 6 – là người chiến thắng trong cuộc thi dâng lễ vật cúng đất trời với bánh chưng và bánh dày, còn nàng công chúa út vốn rất nhu mì, khéo léo trong công việc bếp núc đã nảy ra sáng kiến làm kiểu bánh mới mang hương vị của cả hai loại bánh này. Nàng út lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng và phỏng theo hình dạng của bánh chưng và bánh dày để gói thành hai kiểu bánh khác nhau. Một thứ dáng tròn không gói lá, giống như bánh dày; một thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống như bánh chưng. Cả hai loại bánh này đều làm nhỏ lại để tỏ ý khiêm nhường vì nàng là bậc út ít.
Từ đó, bánh của nàng Út được lưu truyền trong dân gian cùng với bánh chưng và bánh dày. Để phân biệt với bánh của chàng Lang Liêu và cũng để tỏ lòng ngợi ca nàng Út, mọi người đã làm theo, gọi bánh bằng chính cái tên của nàng út là “bánh nàng út ít”. Theo thời gian, từ những cải tiến của dân gian, “bánh nàng út ít” đã có hình dạng khác đi chút ít, và tên "bánh nàng út ít" cũng biến thành tên “bánh ít” như hôm nay.
Có lẽ từ tích xưa ấy mà bánh ít luôn có mặt trên bàn thờ tổ tiên trong ngày giỗ quãy, tết nhứt. Riêng ở miền Tây, nhà ai có đám giỗ, khi tiển khách về chủ nhà đều gởi một ít quà cho khách mà bánh ít là không thể thiếu trong gói quà ấy! Dân gian có có mấy câu ca dao như sau:
Bánh gì mình dẹt, nhân tròn?
Tên là bánh ít, thảo thơm thì nhiều
Nghĩa tình nặng biết bao nhiêu
Phải lòng dân Nàng Út mà yêu thương hoài!
Lâu nay, người ta làm bánh ít chỉ khi có dịp giỗ quãy hay tết nhứt vì tốn nhiều công và khá cầu kỳ trong chế biến. Có lẽ vì thế mà người ta nghĩ ra cách làm bánh đơn giãn và nhanh hơn. Bánh không cần dùng lá để gói và hấp hay luộc đều được - Đó là bánh ít trần.
Điều đặc biệt hơn trong cách biến thể này là bánh ít trần làm bằng nhưn mặn. Thường thì người ta hay làm nhưn bánh gồm: tôm, thịt và củ sắn bằm. Nhưng ở thôn quê đâu phải lúc nào cũng tìm được tôm, thịt, nên thay thế bằng thịt vịt bằm nhuyễn cũng có hương vị độc đáo riêng.
Làm bánh ít trần không tốn công nhiều, cũng không cần nhiều người phụ giúp và muốn làm bánh lúc nào cũng được vì nguyên liệu sẵn có. Sau khi xào nhưn chín, gói vào bột đem hấp hoặc luộc vài mươi phút là bánh đã chín. Món bánh này ăn kèm với rau sống và nước mắm chua ngọt giống như ăn món bánh xèo vậy. Trong những ngày mưa dầm những người phụ nữ quê hay làm món bánh ít trần cho gia đình mình. Đơn giãn lắm mà cũng đậm đà lắm cái hương vị đồng quê!
Ngẫm lại, qua thời gian, chiếc bánh ít đã thay đổi hình dạng và biến thể phù hợp với điều kiện thực tế mà ông bà ta đã sáng tạo ra trên bước đường mở cõi. Thời gian đi qua, bánh ít cũng lùi dần vào quá khứ. Sẽ có rất nhiều đứa trẻ ngày nay vẫn chưa được nếm thử mùi vị của chiếc bánh ít vì quen với những chiếc bánh Tây. Còn đối với những ai từng ở thôn quê, từng trải qua một thời khó khăn chung của đất nước thì chắc hẵn hương vị của bánh ít nhưn đậu, nhưn dừa hay bánh ít trần nhưn mặn sẽ mãi đọng hoài trong ký ức mình - Đó là cái hồn quê còn giữ lại!
Bánh ít hồn quê

Những hình ảnh thân quen này giờ không phải dễ tìm. Chiếc bánh ít quê nghèo thơm ngon không phải đứa trẻ nào cũng biết, nhất là trẻ con ở thị thành. Ở nông thôn bây giờ, ngày giỗ, ngày tết cũng ít làm bánh hơn vì đã có bánh tây thay dần những chiếc bánh quê!

Nhớ ngày trước, dịp mùng 5 tháng 5 âm lịch, hay nhà có đám giỗ thì cũng gói vài chục, có khi vài trăm cái bánh ít để đãi khách và cho con cháu có cái bánh mà ăn. Khi chuẩn bị làm bánh, trước đó một ngày, người ta tìm cắt những tàu lá chuối còn nguyện vẹn. Phơi tàu lá chuối cho heo héo rồi mới rọc ra để lá chuối không bị rách rời.

Nếu lúc gặp trời mưa dầm, không có nắng để phơi cho lá thêm dai thì người ta trụn vào nước sôi sơ qua rồi mới gói bánh. Nhưng làm như thế là để “chữa cháy” thôi vì khi gói và hấp chín mình bánh nhìn không đẹp mắt. Bánh ít, có hai loại nhưn: nhưn đậu xanh và nhưn dừa. Mà lạ thật, khi nói làm bánh ít thì thường người ta làm cả 2 loại nhưn chứ ít khi chỉ làm một loại.

Ngoài xay bột, giằn bột cho ráo, người ta còn xay đậu xanh cho giập làm đôi, ngâm nước để tách vỏ trước khi luộc cho chín mềm và khô đặt lại đến khi vò viên không dính tay. Lá gói bánh ít được thoa một ít mở hay dầu ăn để khi bóc bánh ra vừa đẹp, vừa không bị dính vào lá.

Trong khi những người phụ nữ chuẩn bị mọi thứ trước khi gói bánh thì cánh đàn ông, trai tráng cũng có việc để phụ giúp. Làm bánh ít nhưn dừa chỉ dùng cơm của trái dừa mới rám vỏ vì cơm còn hơi mềm để khi sên nhưn đến ráo vẫn không dậy mùi dầu dừa. Những ai từng ở quê chắc hẵn khó quên cái bầu không khí đầm ấm, vui vẻ của mọi người trong gia đình, kể cả bà con thân cận trong xóm đến giúp. Đó là cái nếp sinh hoạt ở quê đáng quý, đáng yêu biết nhường nào! Vừa làm vừa chuyện trò, vừa nhắc nhớ về những kỷ niệm đã qua. Đối với trẻ con trong lúc chờ bánh chín còn được nghe bà kể chuyện xưa, tích cũ về tên gọi của loại bánh dân dã này!

Chuyện xưa kể rằng, khi chàng Lang Liêu - con trai của Vua Hùng thứ 6 – là người chiến thắng trong cuộc thi dâng lễ vật cúng đất trời với bánh chưng và bánh dày, còn nàng công chúa út vốn rất nhu mì, khéo léo trong công việc bếp núc đã nảy ra sáng kiến làm kiểu bánh mới mang hương vị của cả hai loại bánh này. Nàng út lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng và phỏng theo hình dạng của bánh chưng và bánh dày để gói thành hai kiểu bánh khác nhau. Một thứ dáng tròn không gói lá, giống như bánh dày; một thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống như bánh chưng. Cả hai loại bánh này đều làm nhỏ lại để tỏ ý khiêm nhường vì nàng là bậc út ít.

Từ đó, bánh của nàng Út được lưu truyền trong dân gian cùng với bánh chưng và bánh dày. Để phân biệt với bánh của chàng Lang Liêu và cũng để tỏ lòng ngợi ca nàng Út, mọi người đã làm theo, gọi bánh bằng chính cái tên của nàng út là “bánh nàng út ít”. Theo thời gian, từ những cải tiến của dân gian, “bánh nàng út ít” đã có hình dạng khác đi chút ít, và tên "bánh nàng út ít" cũng biến thành tên “bánh ít” như hôm nay.

Có lẽ từ tích xưa ấy mà bánh ít luôn có mặt trên bàn thờ tổ tiên trong ngày giỗ quãy, tết nhứt. Riêng ở miền Tây, nhà ai có đám giỗ, khi tiển khách về chủ nhà đều gởi một ít quà cho khách mà bánh ít là không thể thiếu trong gói quà ấy! Dân gian có có mấy câu ca dao như sau:

Bánh gì mình dẹt, nhân tròn?
Tên là bánh ít, thảo thơm thì nhiều
Nghĩa tình nặng biết bao nhiêu
Phải lòng dân Nàng Út mà yêu thương hoài!

Lâu nay, người ta làm bánh ít chỉ khi có dịp giỗ quãy hay tết nhứt vì tốn nhiều công và khá cầu kỳ trong chế biến. Có lẽ vì thế mà người ta nghĩ ra cách làm bánh đơn giãn và nhanh hơn. Bánh không cần dùng lá để gói và hấp hay luộc đều được - Đó là bánh ít trần.

Điều đặc biệt hơn trong cách biến thể này là bánh ít trần làm bằng nhưn mặn. Thường thì người ta hay làm nhưn bánh gồm: tôm, thịt và củ sắn bằm. Nhưng ở thôn quê đâu phải lúc nào cũng tìm được tôm, thịt, nên thay thế bằng thịt vịt bằm nhuyễn cũng có hương vị độc đáo riêng.

Làm bánh ít trần không tốn công nhiều, cũng không cần nhiều người phụ giúp và muốn làm bánh lúc nào cũng được vì nguyên liệu sẵn có. Sau khi xào nhưn chín, gói vào bột đem hấp hoặc luộc vài mươi phút là bánh đã chín. Món bánh này ăn kèm với rau sống và nước mắm chua ngọt giống như ăn món bánh xèo vậy. Trong những ngày mưa dầm những người phụ nữ quê hay làm món bánh ít trần cho gia đình mình. Đơn giãn lắm mà cũng đậm đà lắm cái hương vị đồng quê!
Ngẫm lại, qua thời gian, chiếc bánh ít đã thay đổi hình dạng và biến thể phù hợp với điều kiện thực tế mà ông bà ta đã sáng tạo ra trên bước đường mở cõi. Thời gian đi qua, bánh ít cũng lùi dần vào quá khứ. Sẽ có rất nhiều đứa trẻ ngày nay vẫn chưa được nếm thử mùi vị của chiếc bánh ít vì quen với những chiếc bánh Tây. Còn đối với những ai từng ở thôn quê, từng trải qua một thời khó khăn chung của đất nước thì chắc hẵn hương vị của bánh ít nhưn đậu, nhưn dừa hay bánh ít trần nhưn mặn sẽ mãi đọng hoài trong ký ức mình - Đó là cái hồn quê còn giữ lại!