Re:Thớt "Miệt vườn" của em đã mất
Mấy hôm nay bà con dưới quê bắt đầu xạ lúa vụ Đông Xuân, mình không về được, lòng thấy nao nao làm sao á.
Thôi thì ngồi đây hầu huyện các Bác vậy
<h2>Các nông cụ Việt Nam vang bóng một thời</h2> Trong dân gian ai cũng biết: "Đời sống con người hay vật dụng hằng ngày cũng chỉ có một thời kỳ mà thôi". Bởi vì, sự vô thường phải đến để thay đổi không ai thoát khỏi, từ con người cho đến vật dụng.
Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian khoảng non một lục hoa giáp (60 năm), thì chúng ta sẽ thấy sự thay đổi đời sống con người đáng lưu ý, bằng chứng những nông cụ Việt Nam chúng ta đã không còn sử dụng nữa, ví như: Cối xay lúa, cối xay bột, cối giả gạo... cho đến cái phảng, cái cù nèo, cái nọc để cấy lúa v.v.
Nay, xin góp phần mọn về Vang bóng một thời qua các nông cụ Việt Nam, như chúng ta biết, đất nước VN phần đông sống về nông nghiệp, cho nên mới thấy trong dân gian có câu:
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu,
Tháng hai trồng cà,
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng...
Lưỡi cày và cày ruộng
Vì thế, công việc làm ruộng bắt dầu tháng 3 âm lịch (tháng ba cày vỡ ruộng ra), ngày trước dùng lưỡi cày với đôi trâu hay bò cày đất làm ruộng.
Sau đó, mới lựa lúa tốt làm giống để chuẩn bị rải lúa xuống miếng đất gieo mạ (tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng) và bừa trục miếng đất.
Trâu trục dất
Cái trục dất.
Mãi đến khoảng 14 tháng 7 âm lịch hằng năm, nước dâng bò lên tới các ruộng đất gò, thì bắt đầu nhổ mạ, bởi vì, con nước rong chỉ thuận tiện để cấy được mấy ngày, nếu nhổ mạ trễ thì cây mạ kể như bị nằm phơi nắng, hoặc là có nơi mùa cấy bắt đầu rất muộn, khoảng đầu tháng 8 âm lịch. Đó là, lúc mưa dầm nước lụt, ngập đến lưng quần, nông dân phải cấy các loại giống lúa mùa có thân cao như: nàng thơm, nàng tét, trắng lùn... lúc đầu thì cấy nọc, sau đất thuộc dùng trâu cày thì cấy tay.
Nhổ mạ để cấy
Cây nọc
Quang cảnh các thợ cấy
Khoảng bốn giờ hay hơn một chút, người thợ cấy đến miếng ruộng để bắt công cấy và khoảng năm giờ sáng bắt đầu cấy, họ cấy thật nhanh thoan thoát với cái âm thanh tay người rút khỏi mặt nước nghe chong chóc vang đều, có nơi họ phải trầm mình dưới nước hoặc bị những đám mưa, mặc cho muỗi mòng đĩa vắt.
Trên lưng họ là tấm lá chằm và chiếc nón lá để che mưa, nắng. Bữa cơm trưa của họ thường ăn trên bờ giồng gồm: cơm, một chén mắm chưng hoặc là cá kho và một tô bí rợ hầm dừa...
Khi nói đến cấy lúa, thường dành đàn bà, phải dùng cây nọc để cấy lúa. Cây nọc thường dùng cây Căm xe, Cà chất để đẽo làm cây nọc, nếu làm bằng cây tạp như cây: Sao, Dầu, Mù U... thì cấy chỉ được một mùa mà thôi.
Còn đàn ông thì lo chuyển gánh mạ, đôi khi bằng trâu để cung cấp cho đàn bà cấy.
Ngoài ra, họ phải lo cày bừa, trục và phát cỏ để dọn đất, cào cỏ thành bờ giồng cho sạch để trước khi quý đàn bà cấy lúa.
Khi nhắc đến cây Phảng phát cỏ, thì nó phải đi kèm với cây Cù nèo móc cỏ. Hồi xưa, dân làng phát cỏ dọn đất vào mùa mưa, vì cỏ mọc xanh dờn cả cánh đồng. Đây là, công việc nặng nhọc, người nông dân trai tráng chỉ có thể phát cỏ một công đất mỗi ngày, là mệt đừ, cho nên phải ăn cơm trước dằn bụng mới phát nổi, từ sáng sớm khoảng 4 giờ 30 hay 5 giờ đã ra đồng để phát cỏ, nghe tiếng phảng chém cỏ rào rào , làm dậy lên cả cánh đồng.
Cây Phảng với Cù nèo và người phát cỏ
Như chúng ta đã biết việc làm ruộng bắt đầu :
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng
Cho đến gần Tết tức tháng Chạp mới đem lúa được về nhà và chuẩn bị ăn Tết nguyên Đán chào mừng năm mới.
Vì thế, nhà nông có nơi làm tới 2 hoặc 3 vụ mùa, tùy theo lúa giống và khu đất ruộng đã được phân chia khoanh vùng manh mún để thực hiện. vì thế, trên đồng ruộng lúc nào cũng có lúa chín, mới ngậm đồng đồng, mới cấy, mới gieo mạ hay cấy giâm...
Nhưng đa phần, mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúa và bắt đầu tháng 11 cho đến tháng Chạp là mùa gặt lúa chín vàng ngoài đồng.
Dưới đây, là quang cảnh cắt lúa, đập lúa của nhà nông :
Sau đó, mới phơi lúa, quạt lúa, giê lúa... mới đem lúa vào nhà, hoặc lúa bán đong bằng cái gịa 40 lít
Khi có lúa vào bồ nhà rồi, quý bà con nhà nông còn phải qua giai đoạn xay lúa, rồi giả gạo mới có hạt gạo trắng để nấu cơm dùng hằng ngày, giai đoạn này thời xa xưa cũng không kém phần cơ cực mới có miếng ăn.
Nhân đây, xin kể Cối xay lúa, Cối giả gạo, Cối xay bột....ngày xưa Vang bóng một thời nay không còn hữu dụng nữa như sau:
1.- Cối xay lúa : Ngày trước không có nhà máy xay lúa như ngày nay, cho nên phải dùng Cối xay lúa, trong thời gian trước kia, khoảng nửa thế kỷ, ngày nay cối này không còn thấy để sữ dụng nữa, chỉ thấy ở trong viện bảo tàng, để các em cháu thuộc thế hệ trẻ sau biết được Cối xay lúa
Khi nhìn chúng ta thấy Cối xay lúa có hai thớt trên và dưới chồng lên nhau, cho nên Ông bà mình nói Cối xay lúa này có âm dương kết hợp giống như Cối xay bột vậy, ngoài ra còn có cần trục để xay lúa. Cái thớt trên để đổ lúa vào như chúng ta thấy hình ảnh dưới đây:
Việc làm Cối xay lúa rất cơ cực, tôi đã nghe các bô lão xa xưa kể lại, xin trích dẫn như sau: Khi nhìn cái cối, chúng ta thấy cái vỏ của nó làm bằng tre hoặc trúc, cho nên trước hết phải đương như cái hình dạng giống như cái cần xé, rồi chọn đất sét thật tốt và dẽo, có khi dùng chân đạp vào cho de?, kế đến chọn cây như: Căm xe, Cà chất để chẻ làm răng đặt lên trên, nếu làm bằng cây tạp như cây : Đước,Sao, Dầu, Mù U... thì chỉ xài không được lâu, tuy giá rẻ hơn. Việc làm cối phải biết chẻ răng cho đúng kỹ thuật, nếu không xay lúa không ra gạo lức tốt mà còn làm nát gạo...
Việc làm cối thớt trên và thớt dưới làm giống như nhau,chỉ khác thớt trên phải khoét lỗ để khi xay lúa mà cho lúa vào và làm thêm 2 tay để gắn cần trục xay lúa. Sau đó, làm cái chân cối và cái cần cần trục để xay lúa bằng tay. Về việc làm cối, mỗi miền đất nước khác nhau, có nơi rất cầu kỳ, dùng tre để đan vỏ cối phải đốn vào tháng chạp, bởi vì, mùa khô, tre khô ráo nước, vừa dễ đan và có độ bền. Còn răng cối được làm bằng rễ cây dẻ và được trét một lớp đất ổ mối lên các kẽ răng, bởi vì, các Cụ ngày xưa cho rằng đất ổ mối chịu được khí hậu nóng lạnh không nứt nẻ rất tốt.
Cối xay lúa chỉ để xay ra gạo lức, còn muốn có gạo trắng để ăn thì phải dùng chiếc cối giã gạo. Muốn có gạo lức sạch sau khi xay lúa xong, lại phải đem ra gió để giê lúa cho sạch vỏ lúa trước khi đem giã gạo trắng.
2.- Cối giã gạo gồm có cái cối và cái chày, thông thường thời xưa cái Cối làm bằng cây quý như Căm xe, Cà chất, Cẩm lai.... để cho nó cứng, chắc bền, quết (giã) lâu ngày không ra dăm, có hình trụ, sau thập niên 60 - 70 Cối không làm bằng cây nữa, mả được thay thế Cối bằng đá, bởi cây quý càng ngày khó tìm chăng? còn cái chày thường làm 2 cái bằng cây tạp như: Sao, Dầu, Mù U...dài khoảng từ 1 thước 2 đến 1 thước rưỡi (1,5m), để hai người cùng giã cho mau trắng gạo, vào dịp năm hết Tết đến, thường dùng cái cối này để quết Bánh Phòng.
Sau khi giã gạo xong, còn phải dùng cái sàng để sàng lọc Cám và gạo tấm ra. Cám để cho heo ăn, còn gạo tấm để nấu cơm tấm sau này.
3.- Cối xay bột : Sau khi dùng Cối giã gạo để có gạo trắng nấu cơm ăn mỗi ngày, giống như người Pháp ăn bánh mì vậy. Nhưng muốn có bột dể làm bánh, thì phải dùng gạo ngâm nước trước một đêm trước khi xay ra bột. Cối xay bột, làm bằng khối đá, rồi đẽo thành hai thớt trên và dưới như hình kế bên đây. Ngày xưa, nhứt là trong dịp cận Tết, thông thường, quý bà con đồng hương dùngCối xay bột để xay ra bột, rồi làm các loại bánh, đặc biệt còn mang bột đến lò để tráng các bánh tráng như :bánh tráng mỏng đểlàm bánh cuốn, chả giò, bánh tráng mỏng ngọt để ăn sống,bánh tráng dày để nướng. Ngoài ra, quý bà trong khi tráng bánh, còn mang theo nhưn đậu xanh, dừa nạo mới rán vỏ... rồilấy bánh tráng ngọt mõng làm da bánh ướt ăn rất ngon. Đó là, thời kỳ xa xưa, Cối xay bột ngày nay không còn dùng nữa, vì bột đã được bày bán khắp nơi rất tiện dụng.
4.- Dụng cụ bắt Cá, lươn : Trở lại mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúa, các loại cá cũng thi nhau lên đồng tìm chổ đẻ và đến mùa lúa chín vàng đồng , nước bắt đầu rút cạn, thì cá cũng bắt đầu trở ra sông rach, cho nên nhà nông bắt cá quanh năm và thường dùng dụng cụ để bắt cá, xin trích dẫn trang 586 quyển 4000 Từ Ngữ Thực Hành 2 viết 4 ngôn ngữ : Anh Pháp Việt và Hoa (Đức) Ngữ của Nguyễn Phú Thứ có nêu lên các dụng cụ nhà nông đã vang danh một thời dưới đây :
Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian trên dưới 50 năm, đời sống của chúng ta ở nông thôn VN, mặc dù với nông cụ thô sơ miệt vườn, không được văn minh máy móc tối tân như bây giờ, nhưng có đời sống thoải mái, bởi ngoài đồng có ruộng lúa, có cá tôm, chim, chuột rất nhiều, sau vườn có cây trái và có sông nước trong lành, không bị nhiểm trùng như hiện nay, làm cho sức khỏe con người bị bịnh đe dọa, bởi hóa chất và kỷ nghệ máy móc tạo nên.
Hơn nữa, ngày nay dân số đã tăng gần 90 triệu người, trong khi các loại cá tôm sanh nở không đáp ứng lại nhu cầu đòi hỏi, cho nên không còn cảnh rải Cám ran thơm trên đất sình khi nước cạn rồi chờ các lũ Cá Mè Dinh theo nước lớn lên ăn mồi, để Chài vài mẻ bắt Cá Mè Dinh, như thời thân phụ tôi đã chài xa xưa, bởi vì, bị nguồn nước không được trong sạch do các chất thải độc hại ô nhiểm của các nhà máy, ngoài ra, do sự đánh bắt quá nhiều mà không biết bảo dưỡng các loại cá tôm cá, ví như rà điện.... làm tiêu hao những trứng và cá con, đôi khi không còn thấy xuất hiện những con cá quen thuộc như cá : Trê vàng, Lăng, Phèn, Rô đồng (chỉ thấy Cá Rô Phi)....
Để tạm kết thúc bài này, xin góp phần mọn cho những ai muốn tìm hiểu các Nông Cụ Vang Bóng Một Thời, đồng thời rất mong các Bác đã từng sanh sống ở nông thôn hiểu biết, xin cho biết thêm để bổ túc bài này đầy đủ hơn.
Mấy hôm nay bà con dưới quê bắt đầu xạ lúa vụ Đông Xuân, mình không về được, lòng thấy nao nao làm sao á.
Thôi thì ngồi đây hầu huyện các Bác vậy
<h2>Các nông cụ Việt Nam vang bóng một thời</h2> Trong dân gian ai cũng biết: "Đời sống con người hay vật dụng hằng ngày cũng chỉ có một thời kỳ mà thôi". Bởi vì, sự vô thường phải đến để thay đổi không ai thoát khỏi, từ con người cho đến vật dụng.
Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian khoảng non một lục hoa giáp (60 năm), thì chúng ta sẽ thấy sự thay đổi đời sống con người đáng lưu ý, bằng chứng những nông cụ Việt Nam chúng ta đã không còn sử dụng nữa, ví như: Cối xay lúa, cối xay bột, cối giả gạo... cho đến cái phảng, cái cù nèo, cái nọc để cấy lúa v.v.
Nay, xin góp phần mọn về Vang bóng một thời qua các nông cụ Việt Nam, như chúng ta biết, đất nước VN phần đông sống về nông nghiệp, cho nên mới thấy trong dân gian có câu:
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu,
Tháng hai trồng cà,
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng...


Lưỡi cày và cày ruộng
Vì thế, công việc làm ruộng bắt dầu tháng 3 âm lịch (tháng ba cày vỡ ruộng ra), ngày trước dùng lưỡi cày với đôi trâu hay bò cày đất làm ruộng.
Sau đó, mới lựa lúa tốt làm giống để chuẩn bị rải lúa xuống miếng đất gieo mạ (tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng) và bừa trục miếng đất.

Trâu trục dất

Cái trục dất.
Mãi đến khoảng 14 tháng 7 âm lịch hằng năm, nước dâng bò lên tới các ruộng đất gò, thì bắt đầu nhổ mạ, bởi vì, con nước rong chỉ thuận tiện để cấy được mấy ngày, nếu nhổ mạ trễ thì cây mạ kể như bị nằm phơi nắng, hoặc là có nơi mùa cấy bắt đầu rất muộn, khoảng đầu tháng 8 âm lịch. Đó là, lúc mưa dầm nước lụt, ngập đến lưng quần, nông dân phải cấy các loại giống lúa mùa có thân cao như: nàng thơm, nàng tét, trắng lùn... lúc đầu thì cấy nọc, sau đất thuộc dùng trâu cày thì cấy tay.

Nhổ mạ để cấy

Cây nọc

Quang cảnh các thợ cấy
Khoảng bốn giờ hay hơn một chút, người thợ cấy đến miếng ruộng để bắt công cấy và khoảng năm giờ sáng bắt đầu cấy, họ cấy thật nhanh thoan thoát với cái âm thanh tay người rút khỏi mặt nước nghe chong chóc vang đều, có nơi họ phải trầm mình dưới nước hoặc bị những đám mưa, mặc cho muỗi mòng đĩa vắt.
Trên lưng họ là tấm lá chằm và chiếc nón lá để che mưa, nắng. Bữa cơm trưa của họ thường ăn trên bờ giồng gồm: cơm, một chén mắm chưng hoặc là cá kho và một tô bí rợ hầm dừa...
Khi nói đến cấy lúa, thường dành đàn bà, phải dùng cây nọc để cấy lúa. Cây nọc thường dùng cây Căm xe, Cà chất để đẽo làm cây nọc, nếu làm bằng cây tạp như cây: Sao, Dầu, Mù U... thì cấy chỉ được một mùa mà thôi.
Còn đàn ông thì lo chuyển gánh mạ, đôi khi bằng trâu để cung cấp cho đàn bà cấy.
Ngoài ra, họ phải lo cày bừa, trục và phát cỏ để dọn đất, cào cỏ thành bờ giồng cho sạch để trước khi quý đàn bà cấy lúa.
Khi nhắc đến cây Phảng phát cỏ, thì nó phải đi kèm với cây Cù nèo móc cỏ. Hồi xưa, dân làng phát cỏ dọn đất vào mùa mưa, vì cỏ mọc xanh dờn cả cánh đồng. Đây là, công việc nặng nhọc, người nông dân trai tráng chỉ có thể phát cỏ một công đất mỗi ngày, là mệt đừ, cho nên phải ăn cơm trước dằn bụng mới phát nổi, từ sáng sớm khoảng 4 giờ 30 hay 5 giờ đã ra đồng để phát cỏ, nghe tiếng phảng chém cỏ rào rào , làm dậy lên cả cánh đồng.

Cây Phảng với Cù nèo và người phát cỏ
Như chúng ta đã biết việc làm ruộng bắt đầu :
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng
Cho đến gần Tết tức tháng Chạp mới đem lúa được về nhà và chuẩn bị ăn Tết nguyên Đán chào mừng năm mới.
Vì thế, nhà nông có nơi làm tới 2 hoặc 3 vụ mùa, tùy theo lúa giống và khu đất ruộng đã được phân chia khoanh vùng manh mún để thực hiện. vì thế, trên đồng ruộng lúc nào cũng có lúa chín, mới ngậm đồng đồng, mới cấy, mới gieo mạ hay cấy giâm...
Nhưng đa phần, mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúa và bắt đầu tháng 11 cho đến tháng Chạp là mùa gặt lúa chín vàng ngoài đồng.
Dưới đây, là quang cảnh cắt lúa, đập lúa của nhà nông :



Sau đó, mới phơi lúa, quạt lúa, giê lúa... mới đem lúa vào nhà, hoặc lúa bán đong bằng cái gịa 40 lít
Khi có lúa vào bồ nhà rồi, quý bà con nhà nông còn phải qua giai đoạn xay lúa, rồi giả gạo mới có hạt gạo trắng để nấu cơm dùng hằng ngày, giai đoạn này thời xa xưa cũng không kém phần cơ cực mới có miếng ăn.
Nhân đây, xin kể Cối xay lúa, Cối giả gạo, Cối xay bột....ngày xưa Vang bóng một thời nay không còn hữu dụng nữa như sau:
1.- Cối xay lúa : Ngày trước không có nhà máy xay lúa như ngày nay, cho nên phải dùng Cối xay lúa, trong thời gian trước kia, khoảng nửa thế kỷ, ngày nay cối này không còn thấy để sữ dụng nữa, chỉ thấy ở trong viện bảo tàng, để các em cháu thuộc thế hệ trẻ sau biết được Cối xay lúa
Khi nhìn chúng ta thấy Cối xay lúa có hai thớt trên và dưới chồng lên nhau, cho nên Ông bà mình nói Cối xay lúa này có âm dương kết hợp giống như Cối xay bột vậy, ngoài ra còn có cần trục để xay lúa. Cái thớt trên để đổ lúa vào như chúng ta thấy hình ảnh dưới đây:

Việc làm Cối xay lúa rất cơ cực, tôi đã nghe các bô lão xa xưa kể lại, xin trích dẫn như sau: Khi nhìn cái cối, chúng ta thấy cái vỏ của nó làm bằng tre hoặc trúc, cho nên trước hết phải đương như cái hình dạng giống như cái cần xé, rồi chọn đất sét thật tốt và dẽo, có khi dùng chân đạp vào cho de?, kế đến chọn cây như: Căm xe, Cà chất để chẻ làm răng đặt lên trên, nếu làm bằng cây tạp như cây : Đước,Sao, Dầu, Mù U... thì chỉ xài không được lâu, tuy giá rẻ hơn. Việc làm cối phải biết chẻ răng cho đúng kỹ thuật, nếu không xay lúa không ra gạo lức tốt mà còn làm nát gạo...
Việc làm cối thớt trên và thớt dưới làm giống như nhau,chỉ khác thớt trên phải khoét lỗ để khi xay lúa mà cho lúa vào và làm thêm 2 tay để gắn cần trục xay lúa. Sau đó, làm cái chân cối và cái cần cần trục để xay lúa bằng tay. Về việc làm cối, mỗi miền đất nước khác nhau, có nơi rất cầu kỳ, dùng tre để đan vỏ cối phải đốn vào tháng chạp, bởi vì, mùa khô, tre khô ráo nước, vừa dễ đan và có độ bền. Còn răng cối được làm bằng rễ cây dẻ và được trét một lớp đất ổ mối lên các kẽ răng, bởi vì, các Cụ ngày xưa cho rằng đất ổ mối chịu được khí hậu nóng lạnh không nứt nẻ rất tốt.
Cối xay lúa chỉ để xay ra gạo lức, còn muốn có gạo trắng để ăn thì phải dùng chiếc cối giã gạo. Muốn có gạo lức sạch sau khi xay lúa xong, lại phải đem ra gió để giê lúa cho sạch vỏ lúa trước khi đem giã gạo trắng.
2.- Cối giã gạo gồm có cái cối và cái chày, thông thường thời xưa cái Cối làm bằng cây quý như Căm xe, Cà chất, Cẩm lai.... để cho nó cứng, chắc bền, quết (giã) lâu ngày không ra dăm, có hình trụ, sau thập niên 60 - 70 Cối không làm bằng cây nữa, mả được thay thế Cối bằng đá, bởi cây quý càng ngày khó tìm chăng? còn cái chày thường làm 2 cái bằng cây tạp như: Sao, Dầu, Mù U...dài khoảng từ 1 thước 2 đến 1 thước rưỡi (1,5m), để hai người cùng giã cho mau trắng gạo, vào dịp năm hết Tết đến, thường dùng cái cối này để quết Bánh Phòng.

Sau khi giã gạo xong, còn phải dùng cái sàng để sàng lọc Cám và gạo tấm ra. Cám để cho heo ăn, còn gạo tấm để nấu cơm tấm sau này.
3.- Cối xay bột : Sau khi dùng Cối giã gạo để có gạo trắng nấu cơm ăn mỗi ngày, giống như người Pháp ăn bánh mì vậy. Nhưng muốn có bột dể làm bánh, thì phải dùng gạo ngâm nước trước một đêm trước khi xay ra bột. Cối xay bột, làm bằng khối đá, rồi đẽo thành hai thớt trên và dưới như hình kế bên đây. Ngày xưa, nhứt là trong dịp cận Tết, thông thường, quý bà con đồng hương dùngCối xay bột để xay ra bột, rồi làm các loại bánh, đặc biệt còn mang bột đến lò để tráng các bánh tráng như :bánh tráng mỏng đểlàm bánh cuốn, chả giò, bánh tráng mỏng ngọt để ăn sống,bánh tráng dày để nướng. Ngoài ra, quý bà trong khi tráng bánh, còn mang theo nhưn đậu xanh, dừa nạo mới rán vỏ... rồilấy bánh tráng ngọt mõng làm da bánh ướt ăn rất ngon. Đó là, thời kỳ xa xưa, Cối xay bột ngày nay không còn dùng nữa, vì bột đã được bày bán khắp nơi rất tiện dụng.
4.- Dụng cụ bắt Cá, lươn : Trở lại mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúa, các loại cá cũng thi nhau lên đồng tìm chổ đẻ và đến mùa lúa chín vàng đồng , nước bắt đầu rút cạn, thì cá cũng bắt đầu trở ra sông rach, cho nên nhà nông bắt cá quanh năm và thường dùng dụng cụ để bắt cá, xin trích dẫn trang 586 quyển 4000 Từ Ngữ Thực Hành 2 viết 4 ngôn ngữ : Anh Pháp Việt và Hoa (Đức) Ngữ của Nguyễn Phú Thứ có nêu lên các dụng cụ nhà nông đã vang danh một thời dưới đây :


Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian trên dưới 50 năm, đời sống của chúng ta ở nông thôn VN, mặc dù với nông cụ thô sơ miệt vườn, không được văn minh máy móc tối tân như bây giờ, nhưng có đời sống thoải mái, bởi ngoài đồng có ruộng lúa, có cá tôm, chim, chuột rất nhiều, sau vườn có cây trái và có sông nước trong lành, không bị nhiểm trùng như hiện nay, làm cho sức khỏe con người bị bịnh đe dọa, bởi hóa chất và kỷ nghệ máy móc tạo nên.
Hơn nữa, ngày nay dân số đã tăng gần 90 triệu người, trong khi các loại cá tôm sanh nở không đáp ứng lại nhu cầu đòi hỏi, cho nên không còn cảnh rải Cám ran thơm trên đất sình khi nước cạn rồi chờ các lũ Cá Mè Dinh theo nước lớn lên ăn mồi, để Chài vài mẻ bắt Cá Mè Dinh, như thời thân phụ tôi đã chài xa xưa, bởi vì, bị nguồn nước không được trong sạch do các chất thải độc hại ô nhiểm của các nhà máy, ngoài ra, do sự đánh bắt quá nhiều mà không biết bảo dưỡng các loại cá tôm cá, ví như rà điện.... làm tiêu hao những trứng và cá con, đôi khi không còn thấy xuất hiện những con cá quen thuộc như cá : Trê vàng, Lăng, Phèn, Rô đồng (chỉ thấy Cá Rô Phi)....

Để tạm kết thúc bài này, xin góp phần mọn cho những ai muốn tìm hiểu các Nông Cụ Vang Bóng Một Thời, đồng thời rất mong các Bác đã từng sanh sống ở nông thôn hiểu biết, xin cho biết thêm để bổ túc bài này đầy đủ hơn.
Re:Thớt "Miệt vườn" của em đã mất
Ô, nói đến Miệt vườn thì cá Lóc mới là loài nổi tiếng & phổ biến nhất mà không thấy các bác đề cập đến nhỉ.
Ô, nói đến Miệt vườn thì cá Lóc mới là loài nổi tiếng & phổ biến nhất mà không thấy các bác đề cập đến nhỉ.
Re:Thớt "Miệt vườn" của em đã mất
Mời bác xem lại trang 4 bài Cá lóc cuốn đọt sen.
Chúc bác vui
sykes nói:Ô, nói đến Miệt vườn thì cá Lóc mới là loài nổi tiếng & phổ biến nhất mà không thấy các bác đề cập đến nhỉ.
Mời bác xem lại trang 4 bài Cá lóc cuốn đọt sen.
Chúc bác vui
Re:Thớt "Miệt vườn" của em đã mất
.............
...........thuvtn nói:sykes nói:Ô, nói đến Miệt vườn thì cá Lóc mới là loài nổi tiếng & phổ biến nhất mà không thấy các bác đề cập đến nhỉ.
Mời bác xem lại trang 4 bài Cá lóc cuốn đọt sen.
Chúc bác vui
Re:Thớt "Miệt vườn" của em đã mất
Em mời các bác
Khúc tiếu ngạo tiêu quẩy
Một tiêu, một quẩy hoà hợp với nhau như khúc tiếu ngạo sắt cầm, giản dị mà gắn bó keo sơn, tung hoành ngang dọc từ Nam chí Bắc, món bánh tiêu quẩy luôn làm say đắm lòng khách qua đường, đôi khi dừng lại không chỉ để mua mà còn ngắm cách người ta làm bánh…
Chuyện kể rằng, vào thời nhà Tống bên nước Trung Hoa xa xôi, có đôi vợ chồng Tần Cối ám hại vị tướng tài Nhạc Phi nên bị nhân dân căm hận, từ đó làm ra một thứ bánh bằng bột mì luôn đính kèm một cặp, chiên trong chảo dầu nóng như kết án chiên vạc dầu đối với đôi vợ chồng xấu xa kia. Đó là xuất xứ của chiếc bánh quẩy mà đến nay đã trở nên phổ biến khắp cả Nam Bắc nước ta. Nhưng với thời gian, hàng bánh quẩy nào hiện nay cũng đều có thêm một thứ bánh như đi liền một cặp với bánh quẩy, ấy là bánh tiêu.
Món ngon đường phố
Gọi bánh tiêu, bánh quẩy là món ngon đường phố thì chính xác 100%, vì trong hằng hà sa số những tiệm bánh ngọt nổi tiếng trong nước, trong hàng trăm hàng ngàn loại bánh chất đầy ắp ở những cửa hàng này, không bao giờ có lẫn bánh tiêu bánh quẩy. Người muốn tìm mua loại bánh này chỉ có thể đi dọc những hè phố bình dân nhất để tìm ra một hàng bánh tiêu bánh quẩy. Có lẽ cũng vì đặc điểm 2 loại bánh này là phải phục vụ “một kèm một” với khách hàng, tức là phải có người đứng chiên tại chỗ phục vụ cho từng khách. Ví thử có đến 2, 3 khách thì người đến sau chịu khó chờ vậy, vì bánh muốn ngon phải là loại bánh vừa vớt ra khỏi chảo dầu, còn nóng hôi hổi, lại vừa mềm vừa giòn.
Nhưng người đã thích món bánh chiên này thì thường sẵn sàng kiên nhẫn đứng đợi để có những chiếc bánh vừa miệng. Những lúc hàng đông, không hiếm khách giận dỗi bỏ đi vì đợi quá lâu. Chủ hàng cũng đành tặc lưỡi tiếc nuối, chứ chiên sẵn thì bánh lại không ngon, cũng mất khách, lại “mang tiếng”.
Không hiểu sao những gánh hàng bánh tiêu, bánh quẩy đa số đều do đàn ông đứng bán. Những đôi tay thô sần ấy lại cực kỳ khéo léo và uyển chuyển trong khi nhồi bột, cán bột. Vốc một nhúm bột khô rải đều trên bề mặt miếng gỗ đã trơn bóng - cốt để bột nhồi không bị dính - tiếp tục ngắt một cục bột đã ủ cho lên men, nhẹ nhàng vuốt dọc rồi dùng cây lăn cán qua, miếng bột đã được kéo ra thành một dây bột dài mỏng đều. Người bán lại tiếp tục dùng một thanh tre cật mỏng, xắn bột thành từng miếng đều nhau. Xếp chồng hai miếng bột lên rồi dùng một chiếc đũa ấn mạnh ở giữa, thế là đã được miếng bột “chuẩn” để làm bánh quẩy.
Còn bánh tiêu thì phải qua công đoạn vốc một nắm mè vất ra giữa miếng gỗ để mè tự rải đều, sau đó mới dùng bột đã ủ đã nhồi cán thành miếng tròn dẹp, một mặt dính mè, một mặt không. Miêu tả lại thì thấy lâu, nhưng thực tế, những động tác ấy người bán cứ làm thoăn thoắt, dường như có thể nhắm mắt lại vẫn thực hiện được chính xác từng ấy công việc.
Có khi người bán còn vừa làm vừa đùa giỡn, vừa kể chuyện tiếu lâm để những người đứng quanh xe bánh ồ lên những tiếng cười giòn giã, quên đi thời gian chờ đợi.
Bột chiên dầu
Người ta thường băn khoăn không biết mình đã gọi đúng tên bánh: “giò cháo quẩy”, “dàu chéo quảy” hay “dầu cháo quẩy”? Rồi thì rút lại là bánh quẩy, vừa nhanh gọn vừa đỡ lúng túng chuyện đúng sai. Bánh quẩy nhìn thì đơn giản, nhưng để có chiếc bánh ngon không phải dễ. Thường người bán phải nhồi và ủ bột trước 24 tiếng. Nhưng thời gian ủ, nhiệt độ ủ như thế nào là cả một bí quyết để món bánh chiên lên phồng to và trở thành một chiếc bánh gần như rỗng ruột, mỏng dính và giòn tan. Điều này không phải một sớm một chiều học được. Phải làm từng ngày, quan sát từng chút và phải căn cứ theo cả điều kiện thời tiết mỗi ngày, trời nóng hay mát, hanh hay nồm để gia giảm thời gian, nhiệt độ cho phù hợp. Như thế món bánh mới đạt yêu cầu chất lượng không đổi, và có thế mới giữ được khách quen.
Bánh quẩy và bánh tiêu thường bán chung, có lẽ chủ yếu là vì hai loại bột làm bánh này không khác nhau là mấy. Cũng bột mì nhồi với bột khai là chính. Nhưng với bánh quẩy, người ta cho thêm chút muối, chỉ một chút thôi đủ để bánh không lạt lẽo, nhưng vẫn còn giữ được độ ngọt nguyên thủy của bột mì.
Còn với bánh tiêu, người ta lại cho thêm ít đường, cũng rất ít, đủ để làm dậy hơn vị ngọt của bột. Vị ngọt của bánh tiêu vì thế rất nhẹ, không như những loại bánh ngọt khác. Với bánh tiêu, người mua cũng không đòi hỏi phải giòn đến như bánh quẩy. Cái hấp dẫn ở bánh tiêu lại là ở những hạt mè thơm ngậy. Những hạt mè trắng li ti sau khi chiên trở nên căng mẩy, quyện với mùi thơm của bột mì chiên giòn trở nên hấp dẫn kỳ lạ. Nếu như bánh quẩy thường được cho vào dùng chung với cháo, với phở thì bánh tiêu thường được dùng kèm với bánh bò. Xẻ đôi chiếc bánh tiêu, kẹp vào giữa miếng bánh bò nữa là được một loại hương vị khác hẳn. Cái mềm xốp của bánh bò khiến bánh tiêu - vốn hơi khô - trở nên dễ ăn hơn, đỡ ngán hơn. Các loại nhân ăn kèm bánh tiêu cũng khá phong phú, tùy sở thích mỗi người. Có người mách nhau kẹp xôi vào giữa, ăn cũng rất ngon, lại có thể thay quà sáng. Có người lại thích nhân “cadé”, là loại nhân làm bằng trứng gà có vị béo ngầy ngậy, rất hợp với bánh tiêu.
Nếu bạn hỏi bánh tiêu bánh quẩy bán ở đâu, đôi khi nhất thời người được hỏi không nhớ ra nổi. Chỉ biết nói mơ hồ chung chung nơi các xe bánh dọc các con đường loanh quanh quận 5 như đường An Dương Vương, Lê Hồng Phong… hay đường Trần Quang Khải quận 3, đường Hồ Biểu Chánh quận Phú Nhuận… À có 1 chổ bán sau chợ Thái Bình phía đường Cống Quỳnh. Hoặc ở Hà Nội thì những điểm đầu tiên người ta khuyên bạn đến sẽ là hàng quẩy nóng Cầu Gỗ hay Phan Bội Châu… Có người nói, nguyên bản của “giò cháo quẩy” là đọc trại từ “Du tặc Cối”, tức nấu dầu tên giặc Tần Cối. Có người lại nói đó là chữ “dầu chao quẩy”, tức “bột chiên dầu”. Thôi thì nghĩa sâu xa của bánh, ta có thể không tường, nhưng rõ ràng đây chỉ đơn giản là một loại “bột chiên dầu”, cả bánh tiêu cũng thế. Và chiên thế nào cho ngon, cho khéo là cả một nghệ thuật, để bánh vàng thơm mà không cháy, béo mà không gắt dầu. Có thế thì bánh tiêu bánh quẩy mới có dịp tung hoành, phổ biến khắp Bắc Nam như hiện nay.
Em mời các bác
Khúc tiếu ngạo tiêu quẩy

Một tiêu, một quẩy hoà hợp với nhau như khúc tiếu ngạo sắt cầm, giản dị mà gắn bó keo sơn, tung hoành ngang dọc từ Nam chí Bắc, món bánh tiêu quẩy luôn làm say đắm lòng khách qua đường, đôi khi dừng lại không chỉ để mua mà còn ngắm cách người ta làm bánh…

Chuyện kể rằng, vào thời nhà Tống bên nước Trung Hoa xa xôi, có đôi vợ chồng Tần Cối ám hại vị tướng tài Nhạc Phi nên bị nhân dân căm hận, từ đó làm ra một thứ bánh bằng bột mì luôn đính kèm một cặp, chiên trong chảo dầu nóng như kết án chiên vạc dầu đối với đôi vợ chồng xấu xa kia. Đó là xuất xứ của chiếc bánh quẩy mà đến nay đã trở nên phổ biến khắp cả Nam Bắc nước ta. Nhưng với thời gian, hàng bánh quẩy nào hiện nay cũng đều có thêm một thứ bánh như đi liền một cặp với bánh quẩy, ấy là bánh tiêu.
Món ngon đường phố
Gọi bánh tiêu, bánh quẩy là món ngon đường phố thì chính xác 100%, vì trong hằng hà sa số những tiệm bánh ngọt nổi tiếng trong nước, trong hàng trăm hàng ngàn loại bánh chất đầy ắp ở những cửa hàng này, không bao giờ có lẫn bánh tiêu bánh quẩy. Người muốn tìm mua loại bánh này chỉ có thể đi dọc những hè phố bình dân nhất để tìm ra một hàng bánh tiêu bánh quẩy. Có lẽ cũng vì đặc điểm 2 loại bánh này là phải phục vụ “một kèm một” với khách hàng, tức là phải có người đứng chiên tại chỗ phục vụ cho từng khách. Ví thử có đến 2, 3 khách thì người đến sau chịu khó chờ vậy, vì bánh muốn ngon phải là loại bánh vừa vớt ra khỏi chảo dầu, còn nóng hôi hổi, lại vừa mềm vừa giòn.

Nhưng người đã thích món bánh chiên này thì thường sẵn sàng kiên nhẫn đứng đợi để có những chiếc bánh vừa miệng. Những lúc hàng đông, không hiếm khách giận dỗi bỏ đi vì đợi quá lâu. Chủ hàng cũng đành tặc lưỡi tiếc nuối, chứ chiên sẵn thì bánh lại không ngon, cũng mất khách, lại “mang tiếng”.

Không hiểu sao những gánh hàng bánh tiêu, bánh quẩy đa số đều do đàn ông đứng bán. Những đôi tay thô sần ấy lại cực kỳ khéo léo và uyển chuyển trong khi nhồi bột, cán bột. Vốc một nhúm bột khô rải đều trên bề mặt miếng gỗ đã trơn bóng - cốt để bột nhồi không bị dính - tiếp tục ngắt một cục bột đã ủ cho lên men, nhẹ nhàng vuốt dọc rồi dùng cây lăn cán qua, miếng bột đã được kéo ra thành một dây bột dài mỏng đều. Người bán lại tiếp tục dùng một thanh tre cật mỏng, xắn bột thành từng miếng đều nhau. Xếp chồng hai miếng bột lên rồi dùng một chiếc đũa ấn mạnh ở giữa, thế là đã được miếng bột “chuẩn” để làm bánh quẩy.

Còn bánh tiêu thì phải qua công đoạn vốc một nắm mè vất ra giữa miếng gỗ để mè tự rải đều, sau đó mới dùng bột đã ủ đã nhồi cán thành miếng tròn dẹp, một mặt dính mè, một mặt không. Miêu tả lại thì thấy lâu, nhưng thực tế, những động tác ấy người bán cứ làm thoăn thoắt, dường như có thể nhắm mắt lại vẫn thực hiện được chính xác từng ấy công việc.

Có khi người bán còn vừa làm vừa đùa giỡn, vừa kể chuyện tiếu lâm để những người đứng quanh xe bánh ồ lên những tiếng cười giòn giã, quên đi thời gian chờ đợi.
Bột chiên dầu

Người ta thường băn khoăn không biết mình đã gọi đúng tên bánh: “giò cháo quẩy”, “dàu chéo quảy” hay “dầu cháo quẩy”? Rồi thì rút lại là bánh quẩy, vừa nhanh gọn vừa đỡ lúng túng chuyện đúng sai. Bánh quẩy nhìn thì đơn giản, nhưng để có chiếc bánh ngon không phải dễ. Thường người bán phải nhồi và ủ bột trước 24 tiếng. Nhưng thời gian ủ, nhiệt độ ủ như thế nào là cả một bí quyết để món bánh chiên lên phồng to và trở thành một chiếc bánh gần như rỗng ruột, mỏng dính và giòn tan. Điều này không phải một sớm một chiều học được. Phải làm từng ngày, quan sát từng chút và phải căn cứ theo cả điều kiện thời tiết mỗi ngày, trời nóng hay mát, hanh hay nồm để gia giảm thời gian, nhiệt độ cho phù hợp. Như thế món bánh mới đạt yêu cầu chất lượng không đổi, và có thế mới giữ được khách quen.

Bánh quẩy và bánh tiêu thường bán chung, có lẽ chủ yếu là vì hai loại bột làm bánh này không khác nhau là mấy. Cũng bột mì nhồi với bột khai là chính. Nhưng với bánh quẩy, người ta cho thêm chút muối, chỉ một chút thôi đủ để bánh không lạt lẽo, nhưng vẫn còn giữ được độ ngọt nguyên thủy của bột mì.
Còn với bánh tiêu, người ta lại cho thêm ít đường, cũng rất ít, đủ để làm dậy hơn vị ngọt của bột. Vị ngọt của bánh tiêu vì thế rất nhẹ, không như những loại bánh ngọt khác. Với bánh tiêu, người mua cũng không đòi hỏi phải giòn đến như bánh quẩy. Cái hấp dẫn ở bánh tiêu lại là ở những hạt mè thơm ngậy. Những hạt mè trắng li ti sau khi chiên trở nên căng mẩy, quyện với mùi thơm của bột mì chiên giòn trở nên hấp dẫn kỳ lạ. Nếu như bánh quẩy thường được cho vào dùng chung với cháo, với phở thì bánh tiêu thường được dùng kèm với bánh bò. Xẻ đôi chiếc bánh tiêu, kẹp vào giữa miếng bánh bò nữa là được một loại hương vị khác hẳn. Cái mềm xốp của bánh bò khiến bánh tiêu - vốn hơi khô - trở nên dễ ăn hơn, đỡ ngán hơn. Các loại nhân ăn kèm bánh tiêu cũng khá phong phú, tùy sở thích mỗi người. Có người mách nhau kẹp xôi vào giữa, ăn cũng rất ngon, lại có thể thay quà sáng. Có người lại thích nhân “cadé”, là loại nhân làm bằng trứng gà có vị béo ngầy ngậy, rất hợp với bánh tiêu.

Nếu bạn hỏi bánh tiêu bánh quẩy bán ở đâu, đôi khi nhất thời người được hỏi không nhớ ra nổi. Chỉ biết nói mơ hồ chung chung nơi các xe bánh dọc các con đường loanh quanh quận 5 như đường An Dương Vương, Lê Hồng Phong… hay đường Trần Quang Khải quận 3, đường Hồ Biểu Chánh quận Phú Nhuận… À có 1 chổ bán sau chợ Thái Bình phía đường Cống Quỳnh. Hoặc ở Hà Nội thì những điểm đầu tiên người ta khuyên bạn đến sẽ là hàng quẩy nóng Cầu Gỗ hay Phan Bội Châu… Có người nói, nguyên bản của “giò cháo quẩy” là đọc trại từ “Du tặc Cối”, tức nấu dầu tên giặc Tần Cối. Có người lại nói đó là chữ “dầu chao quẩy”, tức “bột chiên dầu”. Thôi thì nghĩa sâu xa của bánh, ta có thể không tường, nhưng rõ ràng đây chỉ đơn giản là một loại “bột chiên dầu”, cả bánh tiêu cũng thế. Và chiên thế nào cho ngon, cho khéo là cả một nghệ thuật, để bánh vàng thơm mà không cháy, béo mà không gắt dầu. Có thế thì bánh tiêu bánh quẩy mới có dịp tung hoành, phổ biến khắp Bắc Nam như hiện nay.